Bình Ngô đại cáo Đại cáo bình Ngô

Việt Nam / Lớp 8 / Lớp 10 » Nguyễn Trãi

Nội dung

(Bản dịch Ngô Tất Tố dựa trên bản dịch của Bùi Kỷ)

Thay trời hành hoá, hoàng thượng truyền rằng.

Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt[1] trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cỏi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.

Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết[2] thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm Tử[3] bắt sống Toa Đô[4]
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã[5]
Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi.

Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ[6] xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim trả[7], chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?
Nặng nề những nổi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?

Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao[8] suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế[9] đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi[10]
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.

Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,
Nơi duy ác[11] hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông[12],
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả[13].

Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn[14] lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện[15] quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cỏi một nhà, dựng cần trúc[16] ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông[17] chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.

Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng[18] sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân[19] trúc chẻ tro bay[20].
Sĩ khí[21] đã hăng
Quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ[22] nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh[23] quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô[24] đất cũ thu về.
Ninh Kiều[25] máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp[26] đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công[27].
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.

Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức[28] động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng[29] đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng[30], Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên[31], Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận[32], sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang[33], Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang[34], Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ
Bị ta chặn ở Lê Hoa[35], quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm[36], quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu[37], máu chảy trôi chày[38], nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại[39], thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái[40]
Nhật nguyệt hối rồi lại minh[41]
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi!
Một cỗ nhung y[42] chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân[43] khắp chốn.

Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.
[1] Điếu phạt: (điếu: thương, phạt: trừng trị) rút từ ý “Điếu dân phạt tội” trong Kinh Thư nói về việc Thang, Vũ vì dân mà đánh kẻ có tội là Kiệt, Trụ.
[2] Triệu Tiết: tướng nhà Tống cùng Quách Quỳ đem quân xâm lược nước ta, bị Lí Thường Kiệt đánh đuổi.
[3] Hàm Tử: (thuộc Hưng Yên) nơi Trần Nhật Duật phá quân Toa Đô.
[4] Tướng nhà Nguyên.
[5] Tướng nhà Nguyên.
[6] Con đỏ: con mới đẻ (nghĩa đen); ở đây chỉ nhân dân, theo nghĩa: nhà vua chân chính yêu dân như con mới đẻ.
[7] Chim trả, hươu đen: hai loài vật đều quý, lông chim trả màu tím làm áo và đệm, nhung hươu làm vị thuốc bổ.
Trúc: thời xưa chép sử sách bằng cách dùng dao khắc chữ trên thẻ trúc, rồi quét sơn lên.
[8] Sách lược thao: sách dạy cách dùng binh, đánh trận.
[9] Hưng phế: hưng: nói một triều đại đang lên, phế: nói một triều đại đang xuống và bị lật đổ.
[10] Đồ hồi: mưu tính việc khôi phục lại.
[11] Duy ác (hay ốc): màn che, chỗ bộ tham mưu trong quân đội xưa, nơi bàn bạc việc quân.
[12] Về đông: chữ lấy từ Hán thư, từ câu nói của Lưu Bang (Hán Cao Tổ). Khi bị Hạng Vũ đẩy vào đất Tây Thục, Lưu Bang bực tức nói: “Dư diệc dục đông nhĩ, an năng uất uất cửu cư thử hồ” (Ta cũng muốn trở về đông, sao chịu chết ải ở chốn này).
[13] Phía tả: Tín Lăng Quân nước Nguỵ, nghe tiếng Hầu Doanh là một hiền sĩ, mình ngồi phía hữu, dành phía tả cho Hầu Doanh, tả được coi như trên hữu, có ý tôn trọng người hiền.
[14] Linh Sơn: núi Chí Linh, một ngọn núi hiểm trở ở xã Giao An, huyện Lang Chánh, Thanh Hoá.
[15] Khôi Huyện: lâu nay người ta vẫn cho rằng đây là vùng Khôi Sách, gần Nho Quan, Ninh Bình, giáp Thanh Hoá; gần đây có ý kiến cho rằng Khôi Huyện ở mạn Bá Thước, Thanh Hoá.
[16] Dựng cần trúc: lấy điển cũ nói về Trần Thắng, Ngô Quảng do khởi nghĩa quá gấp không kịp may cờ, giơ cần trúc làm cờ (yết can vi kì).
[17] Hoà nước sông: lấy điển trong Văn tuyển chép lời Hoàng Thạch Công: “Xưa có viên tướng giỏi, khéo dùng binh, nhân có người biếu chai rượu, viên tướng đó truyền tập hợp quân đội bên dòng sông, rồi đổ chai rượu xuống dòng sông để mọi người đều nhắp, gọi là chia ngọt sẻ bùi, cùng nhau chiến đấu một lòng”. Về điển này, theo truyền thuyết, ở huyện Lang Chánh, Thanh Hoá có truyện Suối rượu; ở huyện Thường Xuân, Thanh Hoá có truyện Hòn đá khao đều nói Lê Lợi có làm động tác đổ rượu xuống sông khao quân.
[18] Bồ Đằng: tên một ngọn núi, còn gọi là Bồ Liệt, Bồ Cứ thuộc Quỳ Châu, Nghệ An.
[19] Trà Lân: một địa điểm thuộc xã Bồng Khê, huyện Con Cuông, Nghệ An.
[20] Trúc chẻ tro bay: quân giặc bị tan nhanh dễ như thể chẻ tre, hay như tro bay.
[21] Sĩ khí, quân thanh: tinh thần và thanh thế của quân đội.
[22] Trần Trí, Sơn Thọ, Lí An, Phương Chính: bốn viên tướng của quân Minh.
[23] Tây Kinh: Tây Nhai, hoặc Tây Giai do nhà Hồ xây dựng, di tích hiện còn ở huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hoá (không nên lầm lẫn với Lam Kinh ở Lam Sơn).
[24] Đông Đô: Hà Nội ngày nay.
[25] Ninh Kiều, Tốt Động: hai địa điểm thuộc Chương Mĩ, Hà Tây.
[26] Trần Hiệp, Lí Lượng, Vương Thông, Mã Anh: cũng là các viên tướng của quân Minh.
[27] Mưu phạt, tâm công: đánh bằng mưu, đánh bằng tâm (đánh bằng nhân nghĩa, dùng nhân nghĩa để thuyết phục, cảm hoá).
[28] Tuyên Đức: niên hiệu vua Tuyên Tông nhà Minh, ở ngôi từ 1426 đến 1435.
[29] Thạnh, Thăng: Mộc Thạnh, Liễu Thăng – hai tướng nhà Minh dẫ hai đạo viện binh sau cùng và đều thất bại.
[30] Chi Lăng: địa điểm xưa là cửa ải, nơi Liễu Thăng bị giết (gần ga xe lửa Chi Lăng hiện nay ở Lạng Sơn).
[31] Mã Yên: một địa điểm ở Lạng Sơn. Chú ý: ở nước ta có nhiều nơi mang tên Mã Yên (eo núi giống như cái yên ngựa).
[32] Đánh một trận, đánh hai trận: dịch thoát chữ nhất cổ (đánh hồi trống thứ nhất), tái cổ (đánh hồi trống thứ hai).
[33] Lạng Giang: một địa điểm thuộc Bắc Giang.
[34] Xương Giang: sông chảy qua phủ Lạng Thương. Thành Xương Giang còn di tích gần thành phố Bắc Giang. Bình Than: thuộc vùng Phả Lại hiện nay.
[35] Lê Hoa: một cửa ải xưa kia, giáp ranh huyện Bát Xát, Lào Cai và huyện Mông Tự, Vân Nam (Trung Quốc). Ở đó có sông Lê Hoa. Nay vùng này không có cửa ải.
[36] Cần Trạm: vùng Kép, Lạng Sơn.
[37] Lãnh Câu, Đan Xá: hai địa điểm giáp ranh giữa Vân Nam và nước ta. Chưa rõ đích xác hai địa điểm này ở vùng Lai Châu hay vùng Hà Giang.
[38] Máu chảy trôi chày: do chữ “huyết lưu phiêu chử” trong thiên Vũ thành (Kinh Thư), ý nói máu chảy nhiều, trôi cả chày (chày là một loại vũ khí).
[39] Thần vũ chẳng giết hại: uy vũ thiêng liêng không giết hại mà vẫn thắng.
[40] Kiền khôn: (kiền hay càn chỉ trời, khôn chỉ đất) trời đất. Bĩ, thái: dịch hai que bĩ và thái trong Kinh Dịch (bĩ: bế tắc, thái: thông suốt).
[41] Hối rồi lại minh: tối rồi lại sáng.
[42] Nhung y: áo giáp mặc để ra trận, đây chỉ việc đánh giặc, ý này cũng rút từ thiên Vũ thành đã nêu ở trên, tức nói việc Vũ Vương đánh Trụ: “Chỉ một cỗ nhung y mà thiên hạ thu về được” (Nhất nhung y, thiên hạ đại định). Ở đây, chỉ Lê Lợi.
[43] Duy tân: đổi mới; ý nói cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã mở ra một kỉ nguyên mới - kỉ nguyên xây dựng một nhà nước Đại Việt tự chủ và thịnh vượng, dưới triều vua mới.
Sau khi quân ta đại thắng, tiêu diệt và làm tan rã 15 vạn viện binh của giặc, Vương Thông buộc phải giảng hoà, chấp nhận rút quân về nước, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết Đại cáo bình Ngô. Đại cáo bình Ngô có ý nghĩa trọng đại của một bản tuyên ngôn độc lập được công bố vào tháng Chạp, năm Đinh Mùi (tức đầu năm 1528). Bài đại cáo này mang đặc trưng cơ bản của thể cáo nói chung, đồng thời có những sáng tạo riêng của Nguyễn Trãi.

Cáo là thể văn nghị luận có từ thời cổ ở Trung Quốc, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương, một sự nghiệp, tuyên ngôn một sự kiện để mọi người cùng biết. Trong thể cáo, có loại văn cáo thường ngày như chiếu sách của vua truyền xuống về một vấn đề nào đó, có lại văn đại cáo mang ý nghĩa một sự kiện trọng đại, có tính chất quốc gia. Cáo có thể được viết bằng văn xuôi hay văn vần nhưng phần nhiều được viết bằng văn biền ngẫu, không có vần hoặc có vần, thường có đối, câu dài ngắn không gò bó, mỗi cặp hai vế đối nhau. Cũng như hịch, cáo là thể văn hùng biện, do đó lời lẽ phải đanh thép, lí luận phải sắc bén, kết cấu phải chặt chẽ, mạch lạc.

Đại cáo bình Ngô do Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi soạn thảo là bài cáo có ý nghĩa trọng đại của quốc gia, được công bố rộng khắp về việc dẹp yên giặc Ngô (ở đây chữ Ngô chỉ giặc Minh xâm lược). Bài đại cáo này được viết theo lối văn biền ngẫu, có vận dụng thể tứ lục (từng cặp câu, mỗi câu mười chữ ngắt theo nhịp 4/6), hình tượng nghệ thuật sinh động, gợi cảm.

Bố cục bài Đại cáo bình Ngô gồm bốn phần:
- Nêu vấn đề chính nghĩa.
- Vạch rõ tội ác kẻ thù.
- Kể lại quá trình chinh phạt gian khổ và tất thắng của cuộc khởi nghĩa.
- Tuyên bố chiến quả, khẳng định sự nghiệp chính nghĩa.