Thuật hoài Tỏ lòng

Việt Nam / Lớp 10 » Phạm Ngũ Lão

Nội dung

述懷

橫槊江山恰幾秋,
三軍貔虎氣吞牛。
男兒未了功名債,
羞聽人間說武侯。


Thuật hoài

Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu,
Tam quân[1] tỳ hổ khí thôn Ngưu[2].
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu[3].


Dịch nghĩa

Cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu,
Ba quân như hổ bào, khi thế hùng dũng nuốt trôi trâu
Thân nam nhi mà chưa trả xong nợ công danh,
Thì luống thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ hầu.


Dịch thơ (Bùi Văn Nguyên)

Múa giáo non sông trải mấy thu,
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu.
Công danh nam tử con vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.


Dịch thơ (Trần Trọng Kim)

Múa giáo non sông trải mấy thâu,
Ba quân hùng khí át sao Ngưu.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.
[1] Ba quân: ngày xưa thường chia quân lính thành ba đội, gọi là tiền quân (đội quân đi trước), trung quân (đội quân đi giữa), hậu quân (đội quân đi sau). Ở đây chỉ quân đội nói chung.
[2] Câu thơ trên đây có hai cách hiểu: cách hiểu như lời dịch ở trên, nhưng cũng có cách hiểu khí thôn ngưu là khí thế át sao Ngưu (chỉ chung khí thế át cả sao trời). Người dịch thơ nghiêng về cách hiểu thứ nhất.
[3] Vũ hầu: tức Gia Cát Lượng, người thời Tam quốc, có nhiều công lao giúp Lưu Bị khôi phục nhà Hán, được phong tước Vũ Lượng hầu (thường gọi tắt là Vũ hầu).
Nguồn: Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (tập II), NXB Văn học, Hà Nội, 1976