Cảm nghĩ về bài thơ “Tĩnh dạ tứ” - hướng dẫn làm bài

Trung Quốc / Lớp 7 » Lý Bạch » Tĩnh dạ tứ

33.67
1. Thể thơ

Bài thơ được viết theo lối cổ thể, mỗi câu thơ thường gồm năm đến bảy chữ nhưng không bị ràng buộc chặt chẽ bởi những quy tắc về niêm luật và đối như thơ cận thể. Hai câu 3 và 4 đối nhau cả về từ và nghĩa.

2. Đại ý

Với những từ ngữ giản dị nhưng rất hàm súc, cô đọng, bài thơ đã thể hiện một cách nhẹ nhàng, thấm thía nỗi nhớ quê hương của tác giả trong đêm thanh tĩnh.

3. Suy nghĩ

Thuở nhỏ, Lý Bạch thường lên ngọn núi Nga Mi ở quê nhà ngắm trăng, Những tháng ngày gắn bó với nơi chôn nhau cắt rốn rồi sau này trong quãng đời lãng du phiêu bạt sẽ trở thành nhớ nhung, hoài vọng. Từ khi hai mươi lăm tuổi cho đến hết quãng đời còn lại nhà thơ sống trong cảnh thiếu quê hương. Cuộc sống ngao du nay đây mai đó với biết bao điều mới lạ là sự lựa chọn của thi nhân. Nhưng trong những bay bổng phóng khoáng diệu kì, tâm hồn nhà thơ cố một khoảng lặng trầm, sâu thẳm trường trực: nỗi nhớ quê hương. Bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh là giai điệu được ngân lên từ cái khoảng lặng trầm mà sâu thẳm ấy.

Vọng nguyệt hoài hương (trông trăng nhớ quê) là một thi đề quen thuộc. Nhà thơ Đỗ Phủ từng ví trăng là ánh sáng quê hương. Trong thơ Lý Bạch tràn đầy trăng. Có trăng nơi quê hương (Trăng nửa vành thu trên đỉnh Nga Mi), trăng nơi biên ải, trăng tri kỉ cùng thi nhân (Một mình uống rượu dưới trăng)... và ở đây là trăng gọi nhớ quê hương. Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh giản dị mà độc đáo, tinh tế mà không hề trau chuốt. Quả đúng như lời Lý Tề Dã:
Thanh thuỷ xuất phù dung
Thiên nhiên khứ điêu sức
(Hoa sen mọc lên từ nước trong
Thiên nhiên không cần phải bài trí, gia công)
Hai câu thơ đầu ngỡ là tả cảnh trăng mà thật ra trăng như sự nhắc gợi, là cái cớ để thi nhân kể câu chuyện lòng:
Đầu giường ánh trăng rọi
Ngỡ mặt đất phủ sương
Tất cả diễn ra trong thoáng chốc (ngỡ - ngẩng đầu – cúi đầu) mà sao thấy một nỗi niềm khôn nguôi. Người lữ thứ cô đơn ngẩng đầu nhìn lên nơi mà ánh trăng đến, trăng vẫn sáng hoà điệu cùng những nỗi niềm. Người cúi đầu như sợ phải đối diện với trăng nhưng làm sao ra ngoài được nỗi nhớ. Lời thơ dứt mà mở ra mênh mang hoài cảm.

Bài thơ được làm theo hình thức cổ thể ngũ ngôn tuyệt cú. Cái tự do của hình thức thể hiện (so với Đường Luật thì cổ thể không bị những quy tắc chặt chẽ về niêm, luật và đối ràng buộc) tỏ ra rất có hiệu quả khi diễn đạt, mạch cảm xúc tự nhiên.

Tuy thế, tác giả cũng đã sử dụng phép đối rất đắc địa ở hai câu cuối: Ngẩng đầu/ Cúi đầu, nhìn trăng sáng/ nhớ cố hương. Nguyên tác cho thấy đây là cặp đối rất chỉnh, về mặt từ loại: động từ/ động từ (cử đầu/ đê đầu, vọng/ tứ), tính từ/ tính từ (mình/ cố), danh từ/ danh từ (nguyệt/ hương). Về mặt ý nghĩa, cặp đối tạo thành sự sóng đôi: Cảnh/ tình (trăng/ quê hương). Sự sóng đôi này chính là cấu tứ của bài thơ. Cảnh gợi tình, trăng gợi nhớ quê hương, rồi đến lúc con người chìm đắm trong nỗi nhớ, trăng thấm đẫm vào hồn. Cái cúi đầu như lặng lẽ, như buồn tủi...
Hồ Ứng Lân (đời Mình) đã từng nhận xét rất xác đáng rằng: “Thơ tuyệt cú của Lý Thái Bạch xuất khẩu mà thành, không có ý làm cho tinh vi mà không bài nào là không tinh vi”. Tĩnh dạ tứ, với những từ ngữ giản dị mà tinh luyện, chỉ vẻn vẹn bốn câu, hai mươi chữ, bài thơ đã thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thía tình quê hương của một người sống xa nhà trong đêm trăng thanh tĩnh.