Phong Kiều dạ bạc

Trung Quốc / Lớp 7 » Trương Kế

Văn mẫu

Nội dung

楓橋夜泊

月落烏啼霜滿天,
江楓漁火對愁眠。
姑蘇城外寒山寺,
夜半鐘聲到客船。


Phong Kiều dạ bạc

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hoả đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.


Dịch nghĩa

Trăng lặn, quạ kêu, sương phủ đầy trời.
Hàng phong bên sông, ngọn đèn thuyền chài ở trước người đang ngủ buồn.
Ngoài thành Cô Tô là chùa Hàn San,
Tiếng chuông lúc nửa đêm vẳng đến thuyền khách.


Dịch thơ (Trần Trọng Kim)

Quạ kêu, trăng lặn, sương rơi
Lửa chài, cây bãi đối người nằm co
Con thuyền đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.


Dịch thơ (Nguyễn Hàm Ninh)

Quạ kêu, trăng lặn, trời sương,
Lửa chài le lói sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.


Dịch thơ (Tản Đà)

Trăng tà, tiếng quạ[1] kêu sương,
Lửa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
[1] Có bản in “chiếc quạ”.
Ngôi chùa nằm ở phía tây trấn Phong Kiều, Tô Châu, được xây vào năm Thiên Giám (502-519) đời Lương Vũ Đế, đến năm Trinh Quán (627-649) đời Đường Thái Tông được gọi là Hàn San tự để tưởng nhớ nhà sư Hàn San cuồng sĩ đã tu ở đây. Trong chùa có tranh tượng hai nhà sư nổi tiếng Hàn San, Thập Đắc.

Bản dịch của Tản Đà có thể được làm dựa trên bản dịch của Nguyễn Hàm Ninh.

Nguồn:
1. Tạp chí Văn học, số 191, tháng 3-2002, trang 36
2. Trần Trọng San, Thơ Đường, NXB Bắc Đẩu, in lần thứ ba, 1972, tập 1, trang 115
3. Lý Văn Hùng, Việt Nam văn chương trích diễm, Sài Gòn, 1961