Bài Lai Tân có thể xếp vào loại thứ nhất. Bài thơ kết cấu trên hai phần. Phần thứ nhất gồm ba câu đầu – ba câu tự sự:
- Câu 1: Ban trưởng ngày ngày đánh bạc.
- Câu 2: Cảnh trưởng ăn tiền phạm nhân.
- Câu 3: Huyện trưởng chong đèn làm việc công (tức hút thuốc phiện).
Phần thứ hai là câu kết: một nhận xét, một lời đánh giá chung về các hiện tượng kể trên.
Theo lô-gích thông thường, người đọc chờ đợi ở câu kết này một lời phê phán mạnh mẽ, một sự lên án quyết liệt tình trạng thối nát của bọn quan lại ở Lai Tân.
Nhưng tác giả đã không làm như thế. Nhà thơ hạ một câu với thái độ dường như dửng dưng, vô cảm:
Lai Tân y cựu thái bình thiên.Đây là điều mà trong nghệ thuật văn chương gọi là “tiền văn không đoán được hậu văn” – một câu kết thật bất ngờ. Nhưng đó chính là một cách ra đòn rất hiểm đã tạo nên một sức mạnh đả kích thật là quyết liệt: tình trạng của bọn quan lại đất Lai Tân diễn ra như thế là trong hoàn cảnh hết sức bình thường đấy thôi. Xin đừng hiểu đây là chuyên đặc biệt, bất thường, chuyện của thời loạn. Không, tình hình Lai Tân xưa nay vẫn thế. Guồng máy hành chính ở đây từ trước tới nay vẫn quay đều đều như thế đấy. Ban trưởng ngày ngày cứ đánh bạc, cảnh trưởng lo móc túi phạm nhân, còn huyện trưởng thì đêm đêm chong đèn hút thuốc phiện – bộ máy cai trị đã có sự phân công phân nhiệm rõ ràng, người nào việc nấy cứ thế mà làm, không ai phải giẫm đạp lên công việc của ai, tất cả đã trở thành nề nếp, trở nên ổn định từ lâu rồi: “Trời đất Lai Tân vẫn thái bình!”
(Trời đất Lai Tân vẫn thái bình)
Ôi, hai chữ “thái bình” hạ xuống, tự nhiên tình trạng thối nát của bọn quan lại Lai Tân bỗng trở thành chuyện bản chất của một chế độ, chuyện phổ biến của bộ máy chính quyền thời Tưởng Giới Thạch. “Thái hình”, đúng là một thi nhân (con mắt của bài thơ), sức nặng của nó đặt lên bàn cân có thể ngang bằng với hai mươi sấu chữ còn lại của bài thất ngôn tuyệt cú! Hoàng Trung Thông nói đúng: “Một chữ thái hình mà xâu táo lại bao nhiêu việc làm trên vốn là chuyện muôn thuở của xã hội Trung Quốc còn giai cấp bóc lột thống trị. Chỉ một chữ ấy mà xé toang tất cả sự “thái bình” dối trá, nhưng thực sự là “đại loạn” bên trong”.
Nên nhớ rằng, khi Hồ Chí Minh viết bài thơ này (cuối năm 1942) thì phát xít Nhật đang xâm lược Trung Quốc (căn cứ vào những ghi chép của tác giả Nhật kí trong tù – mục Đọc sách và Đọc báo thì đến đầu năm 1940, phát xít Nhật đã chiếm của Trung Quốc 15 thành phố, 533 huyện, trong đó có nhiều vùng thuộc tỉnh Quảng Tây).
Lai Tân quả là một tiếng cười đả kích rất ác liệt và có thể nói là tiêu biểu cho phong cách châm biếm của thơ Hồ Chí Minh trong Nhật kí trong tù: không đao to búa lớn, cứ nhẹ nhàng như không mà sức mạnh đả kích thật mãnh liệt, nhằm thẳng vào tim gan của đối tượng. Lai Tân chỉ là một tiếng cười khẩy thế thôi, mà đã phóng ra một đòn có thể nói là chí tử.