Lục Vân Tiên gặp nạn (trích Hồi 10 “Truyện Lục Vân Tiên”)

Việt Nam / Lớp 9 » Nguyễn Đình Chiểu

Nội dung

Đêm khuya lặng lẽ như tờ,
Nghinh ngang[1] sao mọc mịt mờ sương bay.
Trịnh Hâm khi ấy ra tay,
Vân Tiên bị ngã xô ngay xuống vời[2].
Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời,
Cho người thức dậy lấy lời phui pha[3].
Trong thuyền ai nấy kêu la,
Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng.
Vân Tiên mình luỵ[4] giữa dòng,
Giao long[5] dìu đỡ vào trong bãi rày.
Vừa may trời đã sáng ngày,
Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ.
Hối con vầy lửa[6] một giờ,
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày.
Vân Tiên vừa ấm chơn tay,
Ngẩn ngơ hồn phách như say mới rồi.
Ngỡ thân mình phải nước trôi,
Hay đâu còn hãy đặng ngồi dương gian.
Ngư ông khi ấy hỏi han,
Vân Tiên thưa hết mọi đàng gần xa.
Ngư rằng: “Người ở cùng ta,
Hôm mai hẩm hút[7] với già cho vui”.
Tiên rằng: “Ông lấy chi nuôi,
Thân tôi như thể trái mùi[8] trên cây.
Nay đà trôi nổi đến đây,
Không chi báo đáp mình này trơ trơ”.
Ngư rằng: “Lòng lão chẳng mơ,
Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn?
Nước trong rửa ruột sạch trơn,
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.
Rày voi mai vịnh vui vầy,
Ngày kia hứng gió đêm này chơi trăng.
Một mình thong thả làm ăn,
Khoẻ quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm.
Nghêu ngao nay chích[9] mai đầm,
Một bầu trời đất vui thầm ai hay.
Kinh luân[10] đã sẵn trong tay,
Thung dung dưới thế vui say trong trời.
Thuyền nan một chiếc ở đời,
Tắm mưa chải gió[11] trong vời Hàn Giang”.
[1] Nghinh ngang: nghênh ngang. Do cách phát âm của người Nam Bộ, trong đoạn thơ này có nhiều từ như thế, chẳng hạn: phui pha (phôi pha), chơn tay (chân tay), đàng (đường), nầy (này), nhơn nghĩa (nhân nghĩa),...
[2] Vời: khoảng nước rộng.
[3] Phui pha (phôi pha): phai nhạt đi, mất vẻ tưới thắm, đẹp đẽ. Dùng từ phui pha ý tác giả muốn nói Trịnh Hâm kiếm lời nói lấp liếm, làm cho nhẹ chuyện đi, khiến không ai để ý mà truy cứu nữa.
[4] Luỵ: chịu lấy hậu quả việc làm của người khác, ở đây ý nói bị hại.
[5] Giao long: con rồng nước, hay gây sóng dữ. Ở vùng sông Cửu Long, cá sấu cũng gọi là giao long. Để cho giao long cứu Vân Tiên, ý tác giả muốn nói: Vân Tiên là người hiền đức mà bị hãm hại, ngay đến giao long là loài hung dữ mà cũng phải cảm thương mà giúp đỡ.
[6] Vầy lửa: đốt lửa, nhóm lửa.
[7] Hẩm hút (từ cổ): chỉ những thức ăn đạm bạc của người nghèo (hẩm: hư hỏng, biến chất, biến màu; hút: chỉ gạo không trắng). Ở đây ông Ngư ngỏ ý mời Vân Tiên ở lại nhà mình, cùng chia sẻ rau, cháo...
[8] Trái mùi: trái cây quá chín, đã nẫu, ý nói trái cây chín nẫu tất phải rụng, mình bệnh tật nhiều, không biết chết khi nào, sẽ phụ công ông Ngư.
[9] Chích: cái hồ, cái đầm.
[10] Kinh luân: khi làm tơ, kéo từng mối chia ra gọi là kinh, so các sợi mà hợp lại gọi là luân, nghĩa bóng chỉ tài sửa sang, sắp đặt, tổ chức, cai trị nước. Ý ông Ngư muốn nói: ông cũng là người có tài kinh luân, nhưng muốn sống ẩn dật với nghề chài lưới, và trong nghề chài lưới ông cũng chẳng thua kém gì những người có tài trị nước.
[11] Tắm mưa chải gió: tắm mình bằng mưa, chải đầu bằng gió, ý nói nghề chài lưới quen xông pha mưa gió, sống tự do giữa thiên nhiên.
Đoạn này nằm ở phần thứ hai của truyện. Vân Tiên và tiểu đồng đang bơ vơ nơi đất khách quê người thì gặp Trịnh Hâm đi thi trở về. Vốn đã có lòng đố kị, ganh ghét tài năng của Vân Tiên, trịnh Hâm lợi dụng cơ hội để hãm hại chàng. Hắn lừa tiểu đồng vào rừng trói lại rồi giả bộ đưa Vân Tiên xuống thuyền, hứa sẽ dẫn về quê nhà. Đợi đến đêm khuya vắng vẻ, hắn mới thực hiện hành động tội ác của mình.