Thơ Hai-kư của Ba-sô

Nhật Bản / Lớp 10 » Matsuo Bashō

32.00

Văn mẫu

Nội dung

1.
Đất khách mười mùa sương.
Về thăm quê ngoảnh lại
Ê-đô[1] là cố hương

2.
Chim đỗ quyên hót
ở Kinh đô
mà nhớ Kinh đô[2]

3.
Lệ trào nóng hổi
tan trên tay tóc mẹ
làn sương thu[3].

4.
Tiếng vượn hú não nề
hay tiếng trẻ bị bỏ rơi[4] than khóc?
gió mùa thu tái tê.

5.
Mưa đông giăng đầy trời
chú khỉ con thầm ước
có một chiếc áo tơi.

6.
Từ bốn phương trời xa
cánh hoa đào lả tả
gợn sóng hồ Bi-oa[5].

7.
Vắng lạng u trầm
thấm sâu vào đá
tiếng ve ngâm[6].

8.
Nằm bệnh giữa cuộc lãng du
mộng hồn còn phiêu bạt
những cánh đồng hoang vu[7].
[1] Quê Ba-sô ở Mi-ê, ông lên Ê-đô (Tô-ki-ô ngày nay) ở được mười năm mới về thăm lại quê. Nhưng đi rồi lại thấy nhớ Ê-đô, thấy Ê-đô thân thiết như quê hương mình.
[2] Ba-sô ở Kinh đô (Ki-ô-tô) thời trẻ (1666 – 1672), rồi chuyển đến Ê-đô. Hai mươi năm sau ông trở lại Ki-ô-tô, nghe tiếng chim đỗ quyên hót mà viết nên bài thơ này.
[3] Ba-sô về quê, mẹ đã mất. Người anh đưa cho ông di vật còn lại của mẹ là một mớ tóc bạc.
[4] Ngày xưa, người nông dân Nhật Bản rất nghèo, vào những năm đói kém, có khi người ta phải bỏ con vào rừng vì không nuôi nổi.
[5] Hồ Bi-oa (Tì Bà hồ): hồ lớn nhất Nhật Bản, trông giống như hình cây đàn tì bà, rất đẹp, nằm ở trung tâm tỉnh Si-ga, gần quê của Ba-sô.
[6] Bài thơ có liên tưởng kì lạ thể hiện sự tương giao màu nhiệm giữa cảm giác, âm thanh và vật thể.
[7] Đây là bài thơ Ba-sô làm trước khi mất.
So với các thể loại thơ khác trên thế giớ, thơ hai-cư có số từ vào loại ít nhất, chỉ có 17 âm tiết (hoặc hơn một chút), được ngắt ra làm 3 đoạn theo thứ tự thường là 5 – 7 – 5 âm (chỉ có 7, 8 chữ Nhật). Mỗi bài thơ hai-cư đều có một tứ thơ nhất định, thường chỉ nghi lại một phong cảnh với vài sự vật cụ thể, trong một thời điểm nhất định để từ đó khơi gợi lên một xúc cảm, một suy tư nào đó. Thời điểm trong thơ được xác định theo mùa qua quy tắc sử dụng “quý ngữ” (từ chỉ mùa). Thơ hai-cư thấm đẫm tinh thần Thiền tông và tinh thần văn hoá phương Đông nói chung. Hai-cư thường thể hiện con người và vạn vật nằm trong mối quan hệ khăng khít với một cái nhìn nhất thể hoá. Những hiện tượng của tự nhiên như âm thanh, màu sắc, ánh sáng, mùi hương,... đều có sự tương giao và chuyển hoá lẫn nhau, trong một quy luật lớn lao và bí ẩn của tự nhiên. Cảm thức thẩm mĩ của hai-cư có những nét rất riêng, rất cao và rất tinh tế: đề cao cái Vắng lặng, Đơn so, U huyện, Mềm mại, Nhẹ nhàng,... Về ngôn ngữ, hai-cư không dùng nhiều tính từ và trạng từ để cụ thể hoá sự vật. Như một bức tranh thuỷ mặc, hai-cư thường chỉ dùng những nét chấm phá, chỉ gợi chứ không tả, chừa rất nhiều khoảng trống cho trí tưởng tượng của người đọc. Cũng với nghệ thuật vườn cảnh, hoa đạo, trà đạo, họi hoạ, tiểu thuyết,... thơ hai-cư là một đống góp lớn của Nhật Bản vào kho tàng văn hoá nhân loại.