Sống chết mặc bay

Việt Nam / Lớp 7 » Phạm Duy Tốn

45.00

Văn mẫu

Nội dung

Gần một giờ đêm. Trời mưa tầm tã. Nước sông Nhị Hà[1] lên to quá; khúc đê làng X.(a) thuộc phủ X.(b) xem chừng núng thế[2] lắm, hai ba đoạn đã thẩm lậu[3] rồi, không khéo thì vỡ mất.

Dân phu[4] kể hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ, hết sức giữ gìn, kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ[5], bì bõm dưới bùn lầy ngập quá khuỷu chân, người nào người nấy lướt thướt như chuột lột. Tình cảnh trông thật là thảm.

Tuy trống đánh liên thanh[6], ốc thổi vô hồi[7], tiếng người xao xác gọi nhau sang hộ[8], nhưng xem chừng ai ai cũng mệt lử cả rồi. Ấy vậy mà trên trời thời vẫn mưa tầm tã trút xuống, dưới sông thời nước cứ cuồn cuộn bốc lên. Than ôi! Sức người khó lòng địch nổi với sức trời! Thế đê không sao cự lại được với thế nước! Lo thay! Nguy thay! Khúc đê này hỏng mất.

Ấy, lũ con dân đang chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân hèn yếu mà đối với sức mưa to nước lớn, để bảo thủ[9] lấy tính mạng gia tài, thế thời nào quan cha mẹ[10] ở đâu?

Thưa rằng: Đang ở trong đình kia, cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trên mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa, cũng không việc gì.

Trong đình, đèn thắp sáng trưng; nha lệ[11] lính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng. Trên sập[12], mới kê ở gian giữa, có một người quan phụ mẫu[13], uy nghi chễm chện ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ[14] đứng bên, cầm cái quạt lông, chốc chốc sẽ phẩy. Tên nữa đứng khoanh tay, chực chầu điếu đóm. Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến[15] hấp đường phèn, để trong khay khảm[16], khói bay nghi ngút, tráp đồi mồi[17] chữ nhật để mở, trong ngăn bạc đầy những trầu vàng[18], cau đậu[19], rễ tía[20], hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng, nào dao chuôi ngà, nào ống vôi chạm, ngoáy tai, ví thuốc, quản bút, tăm bông[21] trông mà thích mắt. Chung quanh sập, bắc bốn ghế mây, bắt đầu từ phía hữu quan[22] thì có thầy đề[23], rồi lần lượt đến thầy đội nhất[24], thầy thông nhì[25], sau hết giáp phía tay tả ngài, thì đến chánh tổng[26] sở tại[27] cùng ngồi hầu bài.

Ngoài kia, tuy mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít, nhưng trong này xem chừng tĩnh mịch[28] nghiêm trang lắm: trừ quan phụ mẫu ra, mọi người không ai dám to tiếng. So với cái cảnh trăm họ đang vất vả lấm láp, gội gió tắm mưa, như đàn sâu lũ kiến ở trên đê, thời ở trong đình rất là nhàn nhã, đường bệ[29], nguy nga: nào quan ngồi trên, nào nha ngồi dưới, người nhà, lính lệ khoanh tay sắp hàng, nghi vệ tôn nghiêm[30], như thần như thánh. Thỉnh thoảng nghe tiếng quan phụ mẫu gọi: “Điếu, mày[31]”; tiếng tên lính thưa: “Dạ”; tiếng thầy đề hỏi: “Bẩm, bốc[32]”; tiếng quan lớn truyền: “Ừ”. Kẻ này: “Bát sách[33]! Ăn”. Người kia: “Thất văn[34]… Phỗng”, lúc mau, lúc khoan, ung dung êm ái, khi cười, khi nói vui vẻ dịu dàng. Thật là tôn kính, xứng đáng với một vì phúc tinh[35].

Ấy đó, quan phụ mẫu cùng với nha lại[36] đương vui cuộc tổ tôm ở trong đình ấy. Ngài mà còn dở ván bài, hoặc chưa hết hội thì dầu trời long đất lở, đê vỡ dân trôi, ngài cũng thây kệ.

Ôi! Trăm hai mươi lá bài đen đỏ, có cái ma lực[37] gì mà run rủi cho quan mê được như thế?... Này, này đê vỡ mặc đê, nước sông dù nguy, không bằng nước bài[38] cao thấp. Đứng trên đê mà đốc kẻ cắm cừ, người đổ đất, lắm nỗi lầm than, sao bằng ngồi trong đình, đã sẵn kẻ bốc nọc[39] người chia bài, nhiều đường thú vị.

Than ôi! Cứ như cái cách quan ngồi ung dung như vậy, mà hai bên tả hữu, nha lại nghiêm trang, lính hầu rầm rập, thì đố ai dám bảo rằng: gần đó có sự nguy hiểm to, sắp sinh ra một cảnh nghìn sầu muôn thảm, trừ những kẻ lòng lang dạ thú, còn ai nghĩ đến, mà chẳng động tâm, thương xót đồng bào huyết mạch[40]!...

Mặc! Dân, chẳng dân thời chớ! Con bài ngon há nỡ bỏ hoài ru! Quan lớn ngài ăn, ngài đánh; người hầu kẻ hạ, kẻ vâng. Sướng bao nhiêu, thích bao nhiêu! Lúc quan hạ, bài ù, ai ai là người chẳng ngợi khen tấm tắc! Một nước bài cao, bằng mấy mươi đê lở, ruộng ngập! Vậy mà không hiểu thời thật là phàm[41]!

Quan lớn ù thông[42]. Người đầu cánh kẻ cuối tay, tranh nhau phô bài[43] để quan lớn rõ, rằng: “Mình vào được nhưng không dám cố ăn kìm!” Rằng: “Mình có đôi, mà không dám phỗng qua mặt!”. Hèn chi mà quan chẳng ù luôn! Quan ù, ấy là hạnh phúc!...

Khi đó, ván bài quan đã chờ rồi. Ngài xơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt đang mải trông đĩa nọc, bỗng nghe ngoài xa, tiếng kêu vang trời dậy đất. Mọi người đều giật nảy mình, duy quan vẫn điềm nhiên, chỉ lăm le chực người ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ. Vì ngài sắp ù to.

Có người khẽ nói:
- Bẩm, dễ có khi đê vỡ!

Ngài cau mặt, gắt rằng:
- Mặc kệ!

Rồi ngài xếp bài lại, quay gối dựa sang bên tay phải, nghiêng mình bảo thầy đề lại:
- Có ăn không thì bốc chứ!

Thầy đề vội vàng:
- Dạ, bẩm, bốc.

Vừa lúc đó thì tiếng người kêu rầm rĩ, càng nghe càng lớn. Lại có tiếng ào ào như thác chảy xiết; rồi lại có tiếng gà, chó, trâu, bò kêu vang tứ phía.

Bấy giờ ai nấy ở trong đình, đều nôn nao sợ hãi. Thốt nhiên[44] một người nhà quê, mình mẩy lấm láp, quần áo ướt đầm, tất tả chạy xông vào thở không ra lời:
- Bẩm… quan lớn… đê vỡ mất rồi!

Quan lớn đỏ mặt tía tai, quay ra quát rằng:
- Đê vỡ rồi!... Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không?... Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à?
- Dạ, bẩm…
- Đuổi cổ nó ra!

Ngài quay mặt vào, lại hỏi thầy đề:
- Thầy bốc quân gì thế?
- Dạ, bẩm, con chưa bốc.
- Thì bốc đi chứ!

Thầy đề tay run cầm cập, thò vào đĩa nọc, rút ra một con bài, lật ngửa, xướng rằng:
- Chi chi[45]!

Quan lớn vỗ tay xuống sập kêu to:
- Đây rồi!... Thế chứ lại!

Rồi ngài vội vàng xoè bài, miệng vừa cười vừa nói:
- Ù! Thông tôm, chi chi nảy[46]!... Điếu, mày!



Ấy, trong khi quan lớn ù ván bài to như thế, thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết!
[1] Nhị Hà: cũng gọi là Nhĩ Hà, chỉ khúc sông Hồng từ phía dưới Việt Trì trở xuống Thăng Long theo hình uốn cong như vành tai (nhĩ).
[2] Núng thế: ở vào trạng thái không còn vững chắc, dễ đổ, dễ sụt xuống.
[3] Thẩm lậu: (hiện tượng chất lỏng) ngấm qua và rỉ ra chảy đi nơi khác.
[4] Dân phu: người dân bị bắt đi làm các việc công ích trong xã hội cũ.
[5] Cừ: dùng những tấm ván hoặc phên đan và đóng cọc đỡ để ngăn đê vỡ, nước tràn.
[6] Liên thanh: tiếng liền tiếng.
[7] Ốc thổi vô hồi: tiếng tù và lớn thổi liên tiếp, không kể hồi.
[8] Hộ: giúp đỡ, che chở. Ở đây là cùng nhau bảo vệ đê.
[9] Bảo thủ: bảo vệ (bảo) để giữ lấy (thủ). Ở đây, bảo thủ không có nghĩa giữ lấy những điều lạc hậu theo nghĩa thông thường hiện nay.
[10] Quan cha mẹ: cũng gọi là quan phụ mẫu. Thời phong kiến cũng như thời Pháp thuộc có quan niệm coi quan như cha mẹ của dân (dân chi phụ mẫu). Ở đây dùng với ý mỉa mai.
[11] Nha lệ: viên chức và lính hầu ở các cửa quan ngày trước.
[12] Sập: đồ dùng chủ yếu để nằm, được làm bằng gỗ, mặt liền với chân, xung quanh có diềm chạm hoặc khảm để trang trí.
[13] Quan phụ mẫu: xem chú thích trước.
[14] Lính lệ: lính hầu hạ quan lại ở huyện, phủ.
[15] Yến: yến sào, món ăn quý được chế biến từ tổ chim yến (loài chim ở biển, cùng họ với én, làm tổ bằng nước bọt) (yến: én; sào: tổ).
[16] Khay khảm: khay khảm xà cừ hoặc khảm bạc (khay: đồ dùng để bày xếp ấm chén hoặc đựng đồ vật nhỏ).
[17] Tráp đồi mồi: đồ dùng hình hộp chữ nhật nhỏ, làm bằng vỏ con đồi mồi (rùa biển).
[18] Trầu vàng: lá trầu vàng, ăn ngon hơn lá trầu xanh.
[19] Cau đậu: cau khô mà hạt còn dính không rời.
[20] Rễ tía: một thứ rễ cây màu đỏ dùng để ăn trầu (còn gọi là vỏ đỏ).
[21] Tăm bông: tăm xỉa răng đầu có vót xơ cho đẹp (quan lại và lớp người quý phái thường dùng).
[22] Phía hữu quan: chỗ ngồi về phía bên phải của quan.
[23] Đề: viên chức đứng đầu công việc văn phòng ở huyện hoặc phủ thời phong kiến và thời thuộc Pháp.
[24] Đội nhất: chức đội hạng nhất (người chỉ huy một đơn vị lính khoảng 10 người).
[25] Thông phán hạng hai (thông phán là viên chức trung cấp làm việc ở các công sở dưới thời Pháp thuộc).
[26] Chức vụ của người đứng đầu công việc hành chính của một tổng (gồm nhiều xã).
[27] Sở tại: tại chỗ.
[28] Tĩnh mịch: yên tĩnh.
[29] Đường bệ: đường hoàng, bệ vệ.
[30] Nghi vệ tôn nghiêm: nghi thức tôn kính, trang nghiêm.
[31] Cách nói ra lệnh với giọng hách dịch để sai lính hầu lấy điếu hút thuốc.
[32] Trong truyện này có mấy động từ dùng trong khi đánh tài bàn hoặc tổ tôm:
- Bốc: rút quân bài từ đĩa nọc (đĩa đựng phần còn lại của bộ bài đã chia, được đặt ở giữa chiếu bài).
- Ăn: lấy quân bài của người khác đánh hoặc rút ra từ đĩa nọc để hợp vào phu bài của mình.
- Phỗng: bắt được một quân bài do người khác đánh hoặc bốc từ đĩa nọc giống với quân bài mình có sẵn để ghép thành phu.
- Chờ: bài đã đủ điều kiện chỉ chờ bắt trúng một quân nữa là thành phu là ù.
- Hạ: đặt bài xuống chiếu để xướng ù.
- Ù: được thắng bài sau khi đã vào phu hết.
[34] Tên quân bài trong bộ bài tổ tôm.
[33] Tên quân bài trong bộ bài tổ tôm.
[35] Phúc tinh: ngôi sao tốt đưa lại hạnh phúc cho con người – theo quan niệm thiên văn của người xưa (tinh: sao, thiên thể).
[36] Nha lại: từ chỉ chung các công chức làm việc trong cửa quan ngày trước.
[37] Ma lực: sức cám dỗ, lôi cuốn mạnh mẽ, như có gì thần bí khiến người ta khó cưỡng lại.
[38] Nước bài: từ thường dùng trong khi đánh bài cũng như đánh cờ (nước cờ) để chỉ bước đi của quân bài có ảnh hưởng đến thế của ván bài.
[39] Bốc nọc: rút bài từ đĩa nọc.
[40] Huyết mạch: mạch máu (huyết: máu); đồng bào huyết mạch: đồng bào cùng chung một dòng máu.
[41] Phàm: thô tục, không lịch sự, không thanh nhã.
[42] Ù thông: đã ù lại ù tiếp.
[43] Phô bài: bày bài ra cho người khác xem.
[44] Thốt nhiên: thình lình và rất nhanh.
[45] Chi chi: tên một con bài bốc ở đĩa nọc mà với nó, có thể ù ván bài to nhất.
[46] Trong trò chơi tổ tôm có nhiều mức ù. Ù “tôm” cao hơn ù thường. Ù “chi chi nảy” là ù cao nhất. Ù “thông tôm, chi chi nảy”: ù tiếp theo, trong đó vừa có “tôm” vừa có “chi chi nảy” (trường hợp hiếm).
Nguồn: Phạm Duy Tốn, Nam phong, số 18, 1918