Phân tích hình tượng người người nghệ sĩ trong bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”

Việt Nam / Lớp 11 » Nguyễn Đình Chiểu » Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

Chưa có đánh giá nào
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một tác phẩm đỉnh cao sáng tác của nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu, bởi nó biểu hiện cao độ nhất, sâu sắc nhất tư tưởng yêu nước, thương dân của ông. Với long cảm thương và khâm phục chân thành, nhà thơ đã xây dựng nên một tượng đài nghệ thuật bất hủ về người anh hùng nghĩa sĩ nông dân trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Có thể nói bài văn tế là khúc ca bi tráng ca ngợi người nghệ sĩ nông dân đã xả thân vì sự tồn vong của đất nước.

Vẻ đẹp đầu tiên ở họ là tinh thần tự nguyện đánh giặc, vốn là những người dân cày quanh năm côi cút làm ăn, điều lo toan hằng ngày của họ là làm sao cho đủ ăn, đủ mặc, đừng đói khổ, rách rưới. Họ biết thân phận mình là mọn trong xã hội, ngoài sưu thuế phải nộp cho đủ, họ đâu dám nghĩ đến công to việc lớn. Quốc gia đại sự là của vua quan và triều đình. Vậy mà giờ đây, giặc lang sa tràn qua cướp nước, gieo rắc tanh hôi. Đã ba năm mà mặt mũi quan quân chẳng thấy ở đâu, có chăng nữa chỉ là lũ hèn nhát chạy dài. Cảnh tượng đó khiến họ không thể bưng tai, bịt mắt làm ngơ, long yêu nước hun đúc từ ngàn năm trong huyết quản sôi sục, họ tự nguyện đứng lên đánh giặc.
Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Họ nhận về mình công việc cực kỳ khó khăn, to lớn. Đoạn kình, bộ hổ chính là đánh bại quân giặc mạnh hơn mình gấp bao lần. Vẻ đẹp tinh thần của họ là dám đánh, dám làm, dám hi sinh, một lòng xin ra sức ra tay cống hiến sức mình cho tổ quốc. Tinh thần ấy càng đẹp biết bao khi họ chỉ là người dân ấp, dân làng, tự liên kết thành đội ngũ để chiến đấu chứ không phải quân lính của triều đình. Từ cửa nếp nhà tranh của mình, họ xông thẳng vào trận, không hề được luyện tập, nhưng chẳng mảy may sợ sệt. Tình thần đó thêm lớn lao khi nhìn vào vũ khí trong tay họ. Có thể nói,trang bị sắc bén nhất của họ chính là tấm lòng yêu nước, nghĩa lớn vì nước, chứ rơm con cúi, lưỡi dao phay, gậy tầm vông làm sao đem chống lại với súng, với tàu thiếc, tàu đồng. Cái sắc bén, cái sức giết giặc của họ chỉ là ở cái tâm, ở trái tim, ở dũng khí của người cầm dao, cầm gậy. Vẻ đẹp của họ thật hào hung, nhưng bên cạnh cái hào hùng ấy lại là nổi đau, nổi thương muốn rớt nước mắt. Vậy mà ta hãy xem họ xung trận. Bao nhiêu lời văn là bấy nhiêu chất hùng ca, hừng hực khí phách, rực lửa chiến đấu của một trận đánh quyết liệt và anh dũng.
Hoả mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Kẻ đâm ngang, người chém dọc, làm cho mã tà ma ní hồn kinh,...
Quả là tuyệt vời! Ai đó đã dùng một cách nói rất đắt là hình tượng người nghĩa sĩ nông dân cực nhọc, nghèo khó đã hiện lên thành một hình ảnh anh hùng lồng lộng giữa chiến trường, làm chủ trận chiến, áp đảo tất cả. Lưỡi dao phay, ngọn tầm vong của họ đâm ngang, chém dọc, tung hoành, hiên ngang chiếm cả không gian trận địa, làm cho giặc hồn kinh, phách lạc. Tiếng hò, tiếng ó của họ át cả tiếng đại bác của tàu thiếc, tàu đồng. Rơm con cúi, lưỡi dao phay cũng đốt xong đồn giặc. Đoạn văn đầy những động từ, những cụm động từ miêu tả hành động mãnh liệt, hào khí bừng bừng... Trước những con người anh hùng đấy, quân giặc hung dữ với súng đạn nghênh ngang đều như co rúm lại, thấp bé, tồi tàn đến thảm hại. Có thể nói hình bóng người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc nổi lên trên nền trời rực lửa, sừng sững như một tượng đài kì vĩ. Và cảm xúc chủ đoạ của bài văn tế này chính là cảm xúc bi tráng, lời văn rắn rỏi, âm điệu sôi sục, dồn dập. Nghệ thuật đối đã phát huy hiệu quả cao nhất của nó. Tất cả hợp thành một âm điệu chiến đấu hào hùng, phấn khích của một thiên anh hùng ca tuyệt diệu. Ngòi bút của tác giả hoàn toàn xứng đáng với hành động cao cả của người nghĩa sĩ nông dân, với những tư tưởng cực kỳ lớn lao mà tác giả đã phát hiện ra trong hành động tự nguyện giết giặc cứu nước của họ.

Tượng đài nghệ thuật của người nghĩa sĩ nông dân mang tính chất bi tráng. Nó được dựng lên trong nước mắt, trong tiếng khóc của nhà thơ, của nhân dân. Đây là thành công, nghệ thuật xuất sắc của nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu. Bài văn tế như một tấm bia, một cái mốc, một tượng đài vinh quang về người nông dân Nam Bộ anh hùng, về nhân dân lao động muôn đời sáng ngời.