Những kiến thức cơ bàn tác phẩm “Khe chim kêu”

Trung Quốc / Lớp 10 » Vương Duy » Điểu minh giản

Chưa có đánh giá nào
I. Nhưng tri thức bổ trợ

1. Về tác giả và thời điểm tác phẩm ra đời

Vương Duy (701-761) tự là Ma Cật là nhà thơ, và hoạ sĩ nổi tiếng thời Thịnh Đường. Ông là người đất kì, Thái Nguyên, nay thuộc tỉnh Sơn Tây (Trung Quốc). Ông đỗ Giải nguyên năm mười chín tuổi và đỗ Tiến sĩ năm hai mươi mốt tuổi. Suốt đời làm quan nhưng ông cũng bị biếm trích nhiều lần, cho nên càng về cuối đời chí tiến thủ cũng mất đi thay vào đó “suốt ngày gảy đàn thổi sáo, làm thơ làm phú” và cao hơn là “mỗi lần bãi triều về thì đốt hương ngồi một mình đọc kinh niệm phật”. Thơ Vương Duy hiện còn hơn 400 bài, với phong cách tình tế, trang nhã.

Bài Khe chim kêu tiêu biểu cho tài năng của Vương Duy và cái phái thơ sơn thuỷ. Bài thơ tái hiện sự thanh thản bình yên của tâm hồn trong thiên nhiên tĩnh lặng. Hiện nay, bài thơ vẫn chưa rõ năm sáng tác.

2. Tri thức văn hoá

Thơ Vương Duy mang đậm dấu ấn cuộc đời ông thể hiện qua cá thăng trầm của cuộc đời, thời kì đầu mang đạm tính chất nhập thế tích cực, thời kì sau xa lánh cuộc đời và trở về với thiên nhiên. Thơ ông đem lại những bức tranh đẹp tự nhiên với một phong cách rất độc đáo. Nghệ thuật của thơ ông ảnh hưởng nhiều đến các thế hệ đời sau. Nhà thơ Tô Đông Pha thời Tống dã nhận xét: “Thương thức thơ Ma Cật, thấy trong thơ có hoa, xem hoa Mà Cật, thấy trong hoa có thơ”.

3. Tri thức về thể loại

Trong thời thịnh Đường, trước khi xảy ra loạn An –Sử, Trung Hoa đạt tới đỉnh cao của sự phát triển. Khắp nơi là cảnh quốc thái dân an, và nhu cầu hướng về thiên nhiên xuất hiện. Hoàn cảnh ấy là điều kiện cho phái thơ điền viên – sơn thuỷ ra đời. Phái này nổi lên với hai tên tuổi lớn là Vương Duy và Mạnh Hạo Nhiên, cho nên còn được gọi là Phái Vương Mạnh.
Điều minh giản tiêu biểu cho đặc trưng thi pháp thơ Đường: thể hiện bằng quan hẹ, gửi tình trong cảnh.

II. Phân tích tác phẩm

1. Đặc điểm về nội dung
Bài thơ tái hiện cảm xúc của tác giả trong bối cảnh thiên nhiên tĩnh lặng, với vẻ đẹp thanh bình của nó. Qua đó cho thấy sự yên tĩnh thanh thản trong tâm hồn nhà thơ. Đây là sự giao cảm tinh tế giữa hồn thơ Vương Duy và thiên nhiên, từ dó trừu xuất triết lí nhân sinh về thiên – địa – nhân tương giao, tương hoà.

a) Những khái niệm cần chú ý

hai bài thơ dịch đều có vẻ đẹp riêng, song nếu so với nguyên tác thì vẫn có những chỗ chưa thật sát, thật đúng. Do đó, khi phân tích cần chú ý so sành các bản dịch với nguyên tác, chẳng hạn như chữ “tình” (Có thể hiểu là yên lặng tuyệt đối).

b) Nhân vật: Nhân vật trực tiếp được miêu tả thì không có, cả bài thơ chỉ có cảnh vật mà tác giả quan sát được, nghe được.

c) Hình tượng tác giả: Tác giả là chủ đề trữ tình, vừa miêu tả cảnh vật vừa kể lại cảnh vật.

2. Đặc điểm về nghệ thuật

a) Kết cấu của bài thơ

Cả bài thơ chỉ có 20 chữ, nếu kể cả tiêu đề là 23 chữ. Số lượng chữ như vậy thật khiêm tốn, song đã tạo ra được một kết cấu nghệ thuật đặc biệt có khả năng biểu đạt rất lờn. Có thể phân tích bài thơ này theo thứ tự từng câu.

Câu thứ nhất là câu kể:
Nhân nhàn quế hoa lạc,
(Người nhàn, hoa quế rụng)
Tác giả kể lại một tráng thái của bản thân: “nhàn”. “Nhàn” ở đây là đang trong trạng thái thư giãn với tâm hồn thư thái nhất. Có thể tác giả đang trong trạng thái chờ đợi trăng lên, vì đối với thi nhân, trăng lên có vẻ dẹp tuyệt với của nó, đặc biệt là trong đêm yên tĩnh. Trạng thái đó diễn ra trong bối cảnh ban đêm. Vì ban đêm, nên tác giả không quan sát được mà chỉ nghe được. tiếng động ở đây là tiếng rơi của hoa quê, hoa của một loài cây có cành lá xum xuê song hoa thì lại rất nhỏ, thường được trồng làm cảnh ở chốn thu thiền. Tiếng động đó được cảm nhận bằng “người nhàn”. Hai trạng thái đối nghịch nhau” người nhàn.

Tính chất ban đêm này được khẳng định trong câu thứ hai:
Dạ tĩnh xuân sơn không.
(Đêm yên tĩnh, non xuân vắng không.)
Đêm yên tĩnh mà núi xuân cũng yên tĩnh. Chữ “tình là yên lặng nhưng lại được nhấn mạnh thêm bằng chữ “không” khiến sự yên tĩnh càng trở nên tuyệt đối. Đêm trở nên thanh bình, sự yên ắng tràn ngập khắp mọi nơi. Do đó, tiếng rơi của hoa quê, dù rất nhỏ, rất mảnh mai, vẫn được tác giả cảm nhận. tiếng rơi đó không phá tan sự yên tĩnh của đất trời. Sự yên tĩnh được khắc hoạ, miêu tả không phải bằng màu sắc mà bằng chính tiếng động. Tác giả đã dùng động để tả tĩnh.

Câu thứ ba cho thấy một trạng thái khác đó là:
Nguyệt xuất kinh sơn điểu
(Trăng lên làm chim núi giật mình)
Trăng lên không tạo ra tiếng động vậy mà chim cũng giật mình. Bởi vì, cho dù có ánh trăng thì cảnh vật lặng như tờ. Từ đây lại đưa tới một tiếng động khác, đó là tiếng kêu của chim ở câu thứ tư:
Thời minh tại giản trung
(Thỉnh thoảng cất tiếng kêu trong khe suối)
Tiếng kêu của chim hiển nhiên to hơn tiếng rơi của hoa quế, song nó cũng không đủ sức để phá vỡ bầu không gian yên tĩnh. Sự yên ắng tràn ngập khắp nơi, đè nặng khắp nơi. Nguyên tắc dùng động tả tĩnh lại xuất hiện. Bên cạnh đó, nguyên tắc dùng âm để tả cảnh tả hình hiện ra. Âm thanh tôn tạo vẻ đẹp của hình thể. Khi chưa có trăng, cảnh vật dường như tối hơn, khi có trăng lên cảnh vật cũng không sáng hơn. Bởi thế, cái yên tĩnh càng trở nên tuyệt đối hơn. Tất cả vật dường như trở nên đồng nhất trong cái yên tĩnh đó.

Những đêm yên tĩnh ấy còn gắn liền với tâm hồn yên tĩnh. Tuy nhiên, tâm hồn yên tĩnh ấy đã bị xao động bởi tiếng rơi hoa quê, tiếng kêu của chim núi. Tác giả không chê trách những âm thanh ấy mà dường như có sự hoà cảm với chúng, cảm thông với bông hoa rã cánh rời cành, cảm thông với con chim giật mình tỉnh giấc giữa đêm thanh vắng. Cảnh với tình hoa trộn với nhau.

b) Ngôn ngữ

Với sô chữ ít ỏi, hai mươi chữ với bốn câu thơ, một bức tranh thiên nhiên đã được tạo khắc. tác giả đã tạo ra búc tranh đó không phải bằng màu sắc mà bằng âm thanh, song cũng chỉ bằng hai loại tiếng động. Bức tranh cho thấy cảnh đêm tĩnh mịch và tâm hồn cũng tĩnh lặng, nhưng sự cảm nhận được các âm thanh đó trong đêm thanh vắng cho thấy sự đồng cảm nhận được các âm thanh đó trong đêm thanh vắng cho thấy sự đồng cảm của hồn thơ Vương Duy với thế giới tự nhiên.