Giới thiệu về “Bài ca ngất ngưởng” - Nhà nghiên cứu Trần Thị Băng Thanh

Việt Nam / Lớp 11 » Nguyễn Công Trứ » Bài ca ngất ngưởng

15.00
Bài ca ngất ngưởng là một bản tự tổng kết về cuộc đời mình của Nguyễn Công Trứ. Và thật đặc biệt, cả cuộc đời, nhìn lại, ông đã tự chỉ đánh giá bằng một từ ngất ngưởng.

Làm nên sự ngất ngưởng lúc này của Nguyễn Công Trứ là tài và chí. Cũng như tất cả những nhà nho dấn thân hành đạo, Nguyễn Công Trứ lập chí ở việc “kinh bang tế thế” (trị nước giúp đời). Đó là sự nghiệp, đương nhiên có công ắt có danh. Nguyễn Công Trứ đã coi điều đó – công danh – là lẽ sống: “Không công danh thà nát với cỏ cây”; đã làm trai đứng trong trời đất “Phải có danh gì với núi sông”. Với một quan niệm “chí làm trai” như thế, Nguyễn Công Trứ đã “vơ” tất cả mọi việc trong thiên hạ vào phận sự: “Vũ trụ nội mạc phi phận sự”. Cũng không mấy nhà nho hào phóng tự tin đến thế trong việc tự nhận trách nhiệm với đời. Và quả thật trong 28 năm, từ khi thi đỗ đến khi nghỉ quan, Nguyễn Công Trứ đã chứng tỏ tài thao lược của mình. Ông đã liệt kê hàng loạt sự việc lớn:
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông.
Lúc bình Tây, cờ Đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Tất cả, Nguyễn Công Trứ đã thực hiện một cách “ngang ngửa với đời” (nói như ngôn từ đang được lưu hành trong dân gian gần đây):
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Nguyễn Công Trứ đã tỏ ra tự bằng lòng về mình! Ngất ngưởng là một từ tự khen, thể hiện sự đánh giá cao tài năng, nhân cách và cả phong cách cá nhân mình trong thời gian ở cương vị mà những con người thiếu bản lĩnh rất dễ bị tha hoá: quyền cao chức trọng.

Tuy nhiên đối với Nguyễn Công Trứ, công danh không chỉ là vinh mà còn là nợ, là trách nhiệm. Vì thế ông đã coi đó là sự “dấn thân”, tự nguyện đem tự do, tài hoa nhốt vào vòng trói buộc: “Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”. [...]

Sự kiện cởi mũ áo nghỉ quan là một việc hết sức hệ trọng, một bước ngoặt lớn trong cuộc đời người làm quan, nhất là một vị quan to như ông. [...]

Cương vị, chức phận và cuộc sống đã thay đổi, thay đổi sâu sắc: Tay kiếm cung – một ông tướng quyền sinh quyền sát – mà nên (biến đổi, trở thành) dạng từ bi – dáng vẻ tu hành, trái ngược hẳn với Uy Viễn tướng công sát phạt thuở trước. Nguyễn Công Trứ đã để lại đằng sau cả một thời vẫy vùng ngang dọc, còn phía trước, chờ đón ông, dường như là một sự trống vắng: chỉ có núi Đại Nại quê ông với những tầng mây trắng phau:
Kìa núi nọ phau nhau mây trắng.
Câu thơ trữ tình, gợi một chút bâng khuâng, thoáng ý vị chua chát. Những làn mây trắng trên đỉnh núi rất trắng, đậm ý nghĩa tượng trưng, gợi liên tưởng. Nó biểu thị cho những gì rất thanh, rất cao nhưng nhẹ tênh, mong manh và vô định. Tất cả sẽ là hư vô chăng, “bạch vân thương cẩu” (mây trắng biến ra hình chó xanh) chăng?

Song Nguyễn Công Trứ vốn là một tính cách mạnh, sự bâng khuâng triết học đó không dừng lại lâu trong ông. Ông đã nhanh chóng chọn lối sống phá cách đủ để “thích ý”:
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
[...] Nguyễn Công Trứ là một người không quan tâm đến chuyện được mất, không bận lòng vì sự khen chê, có những khi hành lạc: uống rượu, cô đầu, con hát, nhưng rốt lại ông không phải người của Phật, của tiên mà vẫn là một con người của cuộc đời, duy có điều: không vướng tục [...]. Ông vẫn là một nhà nho, mặc dù các bậc “phương điện quốc gia” không ưa ông và ông cũng không ưa được họ, ông vẫn luôn bày ra những sự trái ngược với họ song trong phần sâu thẳm của tâm hồn, lí tưởng mà ông theo đuổi suốt đời không thể nào từ bỏ vẫn là lòng trung quân, giúp đời:
Chẳng Trái, Nhạc cũng nào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Tổng kết cuộc đời mình, Nguyễn Công Trứ tự cho rằng hai điều quan trọng nhất đối với kẻ nam nhi là trách nhiệm “kinh bang tế thế” và đạo nghĩa vua tôi. Ông đã giữ được trọn vẹn, đã thực hiện một cách xuất sắc, sánh được với những danh tướng thời xưa. Chính vì vậy, Nguyễn Công Trứ dám ngông ngạo buông một câu khắng định chắc nịch đầy vẻ thách thức:
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
(Theo Trần Thị Băng Thanh, trong Giảng văn văn học Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997)

Nguồn: SGK Ngữ văn 11, NXB Giáo dục, 2005