Ca dao, dân ca: Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước, con người

Việt Nam / Lớp 7 » Khuyết danh Việt Nam

Nội dung

1. - Ở đâu năm cửa[1] nàng ơi?
Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng?
Sông nào bên đục, bên trong?
Núi nào thắt cổ bồng[2] mà có thánh sinh?
Đền nào thiêng nhất xứ Thanh?
Ở đâu mà lại có thành tiên xây?...

- Thành Hà Nội năm cửa chàng ơi
Sông Lục Đầu[3] sáu khúc nước chảy xuôi một dòng.
Nước sông Thương[4] bên đục bên trong,
Núi Đức Thánh Tản[5] thắt cổ bồng lại có thánh sinh.
Đền Sòng[6] thiêng nhất xứ Thanh
Ở trên tỉnh Lạng có thành tiên xây[7].

2. Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ[8],
Xem cầu Thê Húc[9], xem chùa Ngọc Sơn[10],
Đài Nghiên[11], Tháp Bút[12] chưa mòn,
Hỏi ai gây dựng nên non nước này?
(Bài này của Á Nam Trần Tuấn Khải làm theo thể ca dao và được nhân dân coi như một bài ca dao (dân gian).)

3. Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ
Ai vô xứ Huế thì vô...
(Bài ca dao này có sách ghi: “Đường vô xứ Nghệ…”. Thay địa danh trong các câu ca dao là hiện tượng thường thấy.)

4. Đứng bên ni[13] đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát,
Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, bát ngát mênh mông.
Thân em như chẽn lúa đòng đòng[14],
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.

Đọc thêm:

1. Anh đi anh nhớ non Côi[15],
Nhớ sông Vị Thuỷ[16], nhớ người tình chung.
Quản bao non nước ngại ngùng,
Lấy ai san sẻ gánh gồng đường xa?

2. Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm,
Rượu Hồng Đào chưa nhấm đã say.
(Bài này có nhiều lời ca khác nhau. Đây là hai câu đầu của các lời ca đó, nói về đặc điểm tự nhiên, sản vật, con người Quảng Nam. Đất Quảng Nam nhiều cát và có nhiều vùng khô cằn. Rượu Hồng Đào là loại rượu ngon.)

3. Nam Kỳ[17] sáu tỉnh em ơi,
Cửu Long[18] chín ngọn cùng khơi một nguồn,
Sông Hương[19] nước chảy trong luôn,
Núi Ngự[20] danh tiếng cả muôn dặm ngoài.
[1] Năm cửa ô của Hà Nội, (Ô Chợ Dừa, Ô Cầu Giấy, Ô Quan Chưởng, Ô Cầu Dền, Ô Đống Mác).
[2] Eo, thót ở giữa như hình cái bồng (bồng: một loại nhạc cụ, hai đầu bịt như mặt trống, chính giữa thắt eo). Ví dụ: mâm bồng thường dùng để xếp ngũ quả trên bàn thờ.
[3] Quãng sông do sông Thương, sông Cầu, sông Lục Nam, sông Đuống, sông Kinh Môn, sông Thái Bình gặp nhau tạo thành.Tên sông Lục Đầu gợi nghĩ đến chiến thắng Vạn Kiếp lừng lẫy của Trần Hưng Đạo chống quân Mông – Nguyên xưa kia.
[4] Con sông có đoạn chảy qua thị xã Bắc Giang, ở đây đặc điểm “nước chảy đôi dòng” (bên đục, bên trong) của sông Thương nổi rõ hơn cả.
[5] Tức núi Tản Viên (Ba Vì). Theo truyền thuyết, Sơn Tinh (tức thần Tản Viên, sau này được tôn là Đức Thánh Tản) hoá phép khiến núi thắt cổ bồng để ngăn không cho Thuỷ Tinh dâng nước lên.
[6] Đền thờ bà Chúa Liễu Hạnh, ở huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá.Lễ hội đền Sòng (mở vào tháng 3 âm lịch) là một trong những lễ hội lớn ở miền Bắc.
[7] Tương truyền, ở Lạng Sơn có thành tiên xây.
[8] Tức Hồ Gươm.
[9] Cầu dẫn từ bờ Hồ Gươm vào “chùa Ngọc Sơn”, sơn màu đỏ, dáng vồng cong, trông như đang đón nhận ánh sáng ban mai (thê: đậu lại, húc: ánh sáng do mặt trời mới mọc).
[10] Tên gọi cũ của đền Ngọc Sơn.
[11] Đài mang hình nghiên mực (mực để viết chữ Nho) trên cổng chùa Ngọc Sơn.
[12] Tháp trên đài xây hình cây bút (bút lông để viết chữ Nho). Từ xa nhìn, nhiều lúc thấy hình ngọn bút trên tháp “chấm” vào Đài Nghiên.
[13] Ni: này; tê: kia (tiếng địa phương miền Trung).
[14] Lúa sắp trổ bông.
[15] Tức núi Côi ở huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
[16] Thường gọi là sông Vị, tức sông Vị Hoàng, một nhánh của sông Hồng chảy qua thành phố Nam Định (nay đã bị lấp).
[17] Nam Kỳ là tên do vua Minh Mạng đặt năm 1834 cho phần đất từ Biên Hoà đến Hà Tiên. Sáu tỉnh (Nam Kỳ) gồm Gia Định, Định Tường, Biên Hoà, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.
[18] Tên chỉ phần sông Mê Kông, sông lớn nhất ở Đông Nam Á, chảy trên địa phận nước Việt Nam. Từ Phnôm Pênh, sông Mê Công phân ra hai dòng chính là sông Tiền và sông Hậu và chảy vào Việt Nam. Sông đổ ra biển với chín cửa nên gọi là Cửu Long (chín rồng, tức chín sông).
[19, 20] Cảnh đẹp tiêu biểu của cố đô Huế.
Nguồn: SGK Ngữ văn 7 (tập I), NXB Giáo dục, 2005