Cảm nhận của em về bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” (7)

Việt Nam / Lớp 11 » Hàn Mặc Tử » Đây thôn Vĩ Dạ

Chưa có đánh giá nào
Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ kiệt tác làm nên tên tuổi của thi hào Hàn Mặc Tử. Đọc xong Đây thôn Vĩ Dạ, có người cứ mãi vương vấn cái “mờ nhân ảnh” của “khách đường xa”; có người cứ khắc khoải trong lòng câu hỏi “tình ai có đậm đà”, “có chở trăng về kịp tối nay”; hay lại có người mãi man mác buồn theo hình ảnh của “gió theo lối gió, mây đường mây”. Còn riêng tôi, gấp lại những dòng thơ, cứ ẩn hiện mãi hình ảnh làng quê xứ Huế thơ mộng, cùng bóng dáng “mặt chữ điền” sau lá trúc trong khổ thơ đầu:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền...
Nhiều nguồn tin cho rằng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được hàn Mặc Tử viết tặng mối tình đơn phương với người con gái Huế mang tên Hoàng Thị Kim Cúc trong những tháng ngày một mình chống chọi với bệnh tật tại trại phong Tuy Hoà. Đó là những ngày tháng cuối đời của một người mắc bệnh hiểm nghèo, nhưng trong lòng vẫn luôn khắc khoải mong chờ, vẫn gửi hồn thi sĩ mơ về chốn thơ, dáng thơ một làng quê thơ. Đó là khi nhà thơ nhận được một tấm hình có cảnh thuyền và bến, kèm mấy lời hỏi thăm an ủi của người con gái phương xa thôn Vĩ ông thầm thương nhớ. Chẳng thế mà mở đầu bài thơ đã nhuộm màu nhớ nhung, khắc khoải:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Thoạt tiên, ta không biết đây là câu hỏi hay là một lời mời, mà cũng có thể là cả hai. Phải chăng cái hay của ý thơ ở đây chính là cái sự không rõ ràng, không thể phân định ấy? Câu thơ vừa như một câu hỏi, lại vừa như một lời trách móc. Vừa là một lời trách cứ nhẹ nhàng, nhưng cũng lại là một lời mời ý nhị, e ấp của bóng hồng xứ Huế. Nếu là một lời trách cứ, phải chăng đang trách tác giả sao lâu không về thăm thôn Vĩ? Trách người còn nhớ hay đã quên mà chẳng ghé thăm? Nếu nhìn nhận theo hướng này, thôn Vĩ trong câu thơ là một chốn cũ, có người xưa đang mong đợi một vị khách quay lại ghé thăm. Chỉ một câu “sao anh không về” mà nghe lòng nghẹn lại, như thể nó dồn nén tất cả sự chờ mong, khắc khoải đến mỏi mòn, tha thiết. “Anh” ở đây là ai? Là tác giả? Có một chút trách móc, có cả hờn giận vu vơ, nhưng lại có cả mời gọi đón chào. Phải chăng chất Huế đã ngấm vào cả nhịp thơ, khiến câu thơ bỗng trở nên cũng dịu dàng, uyển chuyển như thanh âm của người con gái Huế mang nét đẹp man mác buồn.

Còn nếu nhìn nhận câu thơ theo hướng của một lời mời, thì đây chính là lời mời vừa khéo léo, vừa ngọt ngào, tinh nghịch lại khó chối từ. Như thể nói rằng thôn Vĩ chúng em tươi đẹp lắm, nên thơ lắm, sao anh chẳng về thăm. Và trong những câu thơ sau, quả thực đã vẽ lên khung cảnh thôn Vĩ như một bức tranh thuỷ mặc, khiến người ta không thể chối từ:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc...
Hình ảnh đầu tiên lọt vào mắt chính là màu của nắng. Nắng sớm trong trẻo rọi bóng những hàng cau đều tăm tắp. Hàng cau là một điểm đặc trưng của các thôn xóm Việt Nam, bởi nhân dân ta đã có tập tục ăn trầu từ ngàn đời nay. Cây cau cũng gắn với rất nhiều câu chuyện về tình yêu đôi lứa mà ông cha ta đã kể từ ngàn đời nay. Không chỉ có thế, hàng cau trong thơ Hàn Mặc Tử còn có thêm cả ánh nắng mới lên buổi sớm, hay chính là biểu tượng của sức sống của niềm vui, của tuổi trẻ và tình yêu. Hình ảnh nắng lặp đi lặp lại hai lần trong một câu thơ càng làm cho khung cảnh trở nên rực rỡ, đầy sức sống, đến mức khiến ta tưởng tượng ra cả những giọt sương được nắng sớm rọi vào, ánh lên màu lấp lánh.

Nhìn ra xa hơn, đó là cả một khu vườn tươi tốt, xanh um. Vườn cây được chăm sóc kỹ lưỡng nên tươi tốt, um tùm đầy sức sống. Tác giả dùng chữ “mướt”, vừa để chỉ sự óng ả, tươi tốt của lá, vừa để chỉ màu xanh ngọc đẹp đẽ của lá. Ở đó ánh lên một sự khoẻ mạnh, chứa chan đầy sức sống của cảnh vật cũng như con người nơi đây. Chỉ một từ mướt cũng đủ làm bật lên vẻ đẹp đến kỳ ảo của sắc xanh vườn tược thôn quê, xanh mướt nghĩa là xanh đều, xanh tươi, xanh đến lấp lánh như thể lá cây còn vấn ướt sương đêm, lại được nắng trong buổi sớm phản chiếu, hắt lên màu xanh như ngọc. Cái sự “xanh như ngọc” là một cách so sánh đầy tượng hình, nếu”mướt” không chỉ gợi màu sắc mà còn gọi cảm giác mềm mại, non xanh mơn mởn thì “xanh như ngọc” mang lại cho người đọc hình dung về cả sức sống lẫn ánh sáng thị giác như thể đang được đứng giữa khu vườn, được nhìn, chạm tay lẫn hít thở hương cây lá tinh khôi.

Khung cảnh thiên nhiên quá đẹp, quá thơ, dường như khiến ta phải thốt lên cảm thán “vườn ai mướt quá” mà lại xanh như ngọc. Nhưng “vườn ai” là vườn của ai? Cách nói lấp lửng, sử dụng đại từ phiếm chỉ độc đáo như thể đã báo trước sự xuất hiện của hình dáng con người. Và không sai, ở câu thơ cuối của khổ, giữa khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp, đầy sức sống, đã có bóng dáng con người xuất hiện, khiến cho cảnh càng trở nên sinh động hơn.
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Trúc là biểu trưng cho người quân tử, lại che ngang khuôn mặt chữ điền của ai đó, có thể là người khách đến thăm thôn Vĩ chăng? Có khi nào là hình ảnh của người nông dân nơi thôn quê thật thà, chất phác đang chăm nom khu vườn mướt xanh như ngọc? Hay là bóng hồng e ấp núp sau lá trúc che ngang của người con gái nơi thôn Vĩ? Phải chăng là người con gái đang đợi chờ?

“Mặt chữ điền” ở đây tuy không được chỉ rõ là hình ảnh của người nông dân, của vị khách đường xa hay là người con gái thôn quê xứ Huế, nhưng giữa cảnh sắc thiên nhiên như mộng, như thơ ấy lại được lồng ghép bóng dáng của con người thật càng trở nên sinh động. Thật là hai hình ảnh thật đẹp, hài hoà, làm cho khung cảnh thêm vài phần thi vị nhưng cũng lại thật gần gũi, mộc mạc đúng chất quê.

Có thể nói Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ viết về tình yêu, nhưng không vì thế mà các chi tiết tả cảnh trở nên mờ nhạt. Ngược lại, trong cảnh có tình, trong tình có cảnh, hoà quyện vào nhau, cảnh đẹp tình buồn, cảnh buồn tình khắc khoải. Cũng giống như tình yêu trong thơ Hàn Mặc Tử, đẹp thì có đẹp nhưng lại quá buồn. Bốn câu thơ đầu khắc hoạ một bức tranh làng quê mộc mạc nhưng thi vị, nét buồn tuy chưa chấm phá quá nhiều, nhưng không hiểu sao lời trách móc, mời gọi lẫn hình ảnh đôi mắt ẩn khuất sau lá trúc che ngang mặt chữ điền cứ làm ta bâng khuâng, man mác!