Bức tranh thiên nhiên và con người trong bài thơ “Chiều tối”

Việt Nam / Lớp 11 » Hồ Chí Minh » Mộ

74.86
1. Hai câu đầu – Bức tranh thiên nhiên
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)
a. Hình ảnh cánh chim – “quyện điểu”: Được vận dụng bút pháp chấm phá – thủ pháp nghệ thuật quen thuộc trong Đường thi, bức tranh thiên nhiên của Hồ Chí Minh hiện lên qua hình ảnh cánh chim tuy giản đơn nhưng giàu sức gợi.

* Gợi thời gian: Dựa vào sắc thái của cánh chim “quyện” (mệt), ta hình dung ra một bầy chim tan tác, đang cố gắng vẫy đôi cánh mỏi mệt sau một ngày kiếm ăn cực nhọc, chúng bỏ lại phía sau bóng chiều tàn, bỏ lại những vất vả để sinh tồn mà tìm về chốn nghỉ. Hoàng hôn trùm lên đất trời cũng là lúc đôi cánh “quy lâm” của chúng thêm nặng với thanh trắc của từ “quyện” đè nặng lên từng chuyển động.

* Gợi không gian: Không chỉ gọi xuống bóng xế tà, cánh chim mỏi ấy trở thành điểm nhấn, lột tả một không gian bao la, rộng lớn của núi rừng. Giữa khoảng trời mênh mông vùng sơn cước, xa xa phía bìa rừng là bầy chim nhỏ cất cánh bay, theo từng lần vỗ cánh, khi bóng của chúng càng thu nhỏ, bầu trời chiều càng trở nên im vắng, trống trải, mênh mông hơn. Đây chính là nghệ thuật lấy động tả tĩnh thường được bắt gặp trong thơ xưa.

* Gợi tâm trạng: Không phải người đi đường nào cũng có thể nhìn ra được vẻ mệt mỏi ẩn sau cánh chim chiều, Hồ Chí Minh phải là người có tình yêu thiên nhiên sâu sắc lắm, gắn kết với thiên nhiên vô cùng, mang cái hồn thi sĩ sâu lắng lãng mạn khôn tả mới dùng được chữ “quyện” để miêu tả bầy chim đang tất tả bay về rừng kia. Nhưng như vậy chưa đủ, Người không chỉ yêu, mà còn thấu hiểu cảnh. Bởi bản thân Hồ Chí Minh cũng như cánh chim kia, mệt mỏi, ủ rũ, chán chường và cực nhọc. Bầy chim về tổ sau một ngày kiếm mồi, tuy vất vả, nhưng vẫn còn tự do. Còn Bác, là tù nhân bị áp giải từ nhà lao này sang nhà ngục kia, hành trình “năm mươi ba cây số một ngày”, từ lúc “gà gáy một lần đêm chửa tan”. Qua bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc trưng của Đường thi, nỗi khổ của người tù xa xứ đã được bộc lộ trọn vẹn trước người đọc như vậy.

+ Nét cổ điển: Đây không phải lần đầu người đọc thấy nhà thơ gửi tâm trạng mình vào cánh chim chiều. Ta đã nghe Nguyễn Du buồn than trong Truyện Kiều: “Chim hôm thoi thóp về rừng”, cũng đã nghe tiếng lòng của Bà huyện Thanh Quan trong hai câu thơ trích bài Chiều hôm nhớ nhà: “Ngàn mai lác đác chim về tổ/ Rặng liễu bâng khuâng khách nhớ nhà.” Tuy mỗi người một nỗi song ẩn dưới bóng chim, nỗi buồn nào cũng da diết.

+ Nét hiện đại: Trong thơ Đường, người đọc dễ dàng bắt gặp những cánh chim lọt thỏm giữa bầu không như trong thơ Liễu Tông Nguyên: “Thiên sơn điểu phi tuyệt / Vạn kính nhân trung diệt” (Nghìn non chim bay mất hút / Muôn nẻo dấu người vắng không). Bên cạnh đó, những thi nhân xưa miêu tả cánh chim nhưng hầu như không vẽ cho chúng một lối về, cánh chim cứ bay trong mông lung vô tận; nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc, Vương Bột từng viết “Lạc hà dữ cô lộ tề phi” (Ráng chiều với cò lẻ cùng bay) và cả Đỗ Phủ cũng “vẽ”: “Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên” (Một hàng cò trắng bay vút lên trời xanh). Tuy nhiên, là một tác gia có phong cách nghệ thuật đa dạng, độc đáo, Hồ Chí Minh không chịu gò bó những vần thơ của mình trong khuôn khổ nét đẹp cổ điển mà thổi vào thơ linh hồn hiện đại. Cánh chim của Bác ủ rũ, nhưng vẫn đập cánh bay về rừng “tìm chốn ngủ” để lấy sức cho một ngày dài tiếp theo. Bác cho thấy sức sống và ý chí của bầy chim nhỏ, điều mà thơ xưa ít đề cập tới.

b. Hình ảnh chòm mây – “cô vân”: Cũng giống như “quyện điểu”, “cô vân” là hình ảnh ước lệ tượng trưng, là thi liệu quen thuộc trong thơ Đường, là một trong những nét chấm phá đặc sắc giữa khung cảnh Chiều tối.

* Gợi không gian: Lại một bút pháp cổ điển nữa được Hồ Chí Minh sử dụng: lấy hữu hạn nói vô hạn. Chòm mây nhỏ bé có sức gợi lớn lao, khơi dậy cả một không gian khoáng đạt, rộng lớn không thấy được đường chân trời của miền sơn cước. Không phải “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”, một khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ với những tầng mây đồ sộ chất cao kín nền trời, mây của Bác là điểm nhấn đứng riêng lẻ, cô độc giữa trời chiều quạnh hiu, im vắng. Một từ “cô” vẽ nên hình ảnh đám mây bé nhỏ co mình lại trong làn gió se se lạnh khi mặt trời đã khuất dần sau núi, khiến phông nền đằng sau nó càng toả rộng, lan ra ngút ngàn.

* Gợi tâm trạng: Bút pháp tả cảnh ngụ tình không chỉ thổi hồn người vào cánh chim mà đặt tâm trạng trĩu nặng lên chòm mây trôi hờ hững. Phải chăng những ưu tú trong Hồ Chí Minh đè nặng lên chòm mây, khiến chúng không thể trôi nhanh, cuốn vào gió mà bay mất hút, thay vì vậy lại “mạn mạn độ thiên không”, một chút lững lờ, một chút quẩn quanh cả một chút bế tắc – điều đã bị đánh mất trong bản dịch thơ của Nam Trân. Hình ảnh chòm mây cô độc trên nền trời vô tận chính là biểu tượng cho người tù nơi đất khách, cô đơn, trơ chọi, lạ lẫm và buồn chán.

+ Nét cổ điển: Đọc Hoàng Hạc lâu – tuyệt tác Đường thi của Thôi Hiệu, người đọc cảm nhận được nỗi buồn của chòm mây chết lặng cả ngàn năm “Bạch vân thiên tải không du du” (Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay). Giữa vô số những hình mây trong thơ xưa cũng nổi bật lên một ví dụ điển hình, đặc sắc khác của Lí Bạch: “Chúng điểu cao phi tận / Cô vân độc khứ nhàn” (Bầy chim một loạt bay cao / Lưng trời thơ thẩn đám mây một mình). Qua những ví dụ này, ta thấy hình ảnh mây trong thơ Bác không phải là thi liệu mới.

+ Nét hiện đại: Cái mới trong thờ Người không phải hình ảnh, mà là hồn thơ. Khác với mây hai trong hai tuyệt phâm trên, mây của Hồ Chí Minh cũng thoát tục, cũng buồn, cũng lẻ loi đơn chiếc nhưng không chết lặng, cũng không thẩn thơ không chịu bay đi. “Cô vân” của Người mang linh hồn người tù xa xứ, tuy gần mất phương hướng, không nhìn ra hi vọng, ánh sáng phía trước nhưng chưa vội bỏ cuộc, linh hồn ấy vẫn thôi thúc đám mây trôi, dù không nhanh, những vẫn chứa đựng sức sống dai dẳng.

c. Tiểu kết: Hai hình ảnh cánh chim và chòm mây không chỉ vẽ nên bức tranh thiên nhiên đẹp mà buồn, chúng còn bộc lộ con người Hồ Chí Minh, một tâm hồn yêu, gắn kết, cùng nhịp điệu với thiên nhiên, một trái tim lãng mạn với thơ ca, mọt người chiến sĩ đứng trước gian lao không chịu chùn bước khuất phục: người đọc thấy được cái buồn, cái mệt của Người, nhưng không mảy may tìm được dấu hiệu bỏ cuộc. Có thể nói, điều khiến cho bức tranh miền sơn cước đẹp lanh động lòng người còn là ý chí, tinh thần hiện đại của Hồ Chí Minh.

2. Hai câu cuối – Bức tranh con người
Thôn sơn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng
(Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng)
a. Hình ảnh cô gái xóm núi – “thôn sơn thiếu nữ”: Trên đường chuyển lao của Hồ Chí Minh, Người không chỉ chiêm ngưỡng cảnh sắc thiên nhiên mà còn ngắm nhìn cả cuộc sống con người vùng sơn dã. Lọt vào tầm mắt Người là hình ảnh cô gái miền núi đang lao động, một hình ảnh bé nhỏ gợi nên biết bao điều.

* Gợi sức sống: Hình ảnh “thôn sơn thiếu nữ” được đặt ở trung tâm bài thơ, làm điểm sáng nghệ thuật, điểm nhấn thu hút người đọc. Mọi ánh nhìn như đổ dồn vào người con gái khoẻ khoắn, đầy sức sống, đang hăng say lao động. Từng vòng xoay của cối xay ngô qua phép điệp vòng “ma bao túc / bao túc ma hoàn” gợi lên chuyển động nhịp nhàng, dẻo dai của người lao động đang vui vẻ chuẩn bị bữa tối. Đây là cảnh tượng dễ dàng được bắt gặp ở bất kỳ miên thôn sơn nào: con người đơn giản mộc mạc làm công việc bình dị quen thuộc. Bản dịch của Nam Trân với hai chữ “cô em” tuy đánh mất phần trang trọng song lại bù đắp sự thân thuộc, gần gũi trong tiếng gọi.

+ Nét cổ điển: Trong thơ xưa hình ảnh con người điểm xuyết trên nền bức tranh thiên nhiên cũng đã xuất hiện nhiều, như trong thơ Bà huyện Thanh Quan: “Lom khom dưới núi tiều vài chú / Lác đác bên sông chợ mấy nhà”. Ngư, tiều, canh, mục hiện lên bé nhỏ, mờ nhạt trong những bức cổ hoạ Đường thi.

+ Nét hiện đại: Một trong số ít những thi nhân sáng tạo thơ Đường, thể hiện sức sống nhộn nhịp, vui vẻ của con người trên bức tranh thiên nhiên có Nguyễn Trãi đã viết: “Lao xao chợ cá làng ngư phủ“. Nếu như tác giả Cảnh ngày hè lấy âm thanh sống động để miêu tả cuộc sống, sinh hoạt của người lao động thì Hồ Chí Minh lại lấy những âm điệu nhịp nhàng từ chiếc cối xay ngô và dáng hình uyển chuyển của người thiếu nữ để hoạ con người. Người thiếu nữ không những không bị hoà lẫn vào cảnh vật im lìm lặng lẽ mà còn trở thành tâm điểm bức tranh.

* Gợi tâm trạng: Hình ảnh người con gái xay ngô đánh thức trong tâm trí người chiến sĩ lưu lạc nơi đất khách về người dân lao động hiền lành, chất phác, như những con dân Việt Nam đang chịu cảnh lầm than cần người tài cứu giúp. Hình ảnh ấy thôi thúc tác giả cố gắng phấn đấu, bước tiếp trên con đường cứu nước gian khổ. Vì vậy, hình tượng “thôn sơn thiếu nữ” mang đậm tính tích cực không những là nguồn động lực, mà còn là lời nhắc nhở đến trái tim yêu nước nồng nàn của Hồ Chí Minh.

b. Hình ảnh “lò than đã rực hồng” – “lô dĩ hồng”: Được đặt ở trung tâm bài thơ, cảnh tượng người con gái miền núi xay ngô chính là điểm sáng của tác phẩm. Tuy nhiên, đó không phải hình ảnh đắt giá duy nhất. Nhãn tự của Chiều tối lại nằm ở cuối bài, là ánh sáng toả ra từ lo than – “hồng” – ấm áp và rực rỡ.

* Gợi thời gian: Để đảm bảo không đánh mất cái hay và tinh tế của từ ngữ, người đọc nên nhìn nhận thời gian trong bài “Mộ” qua phần phiên âm. Vì trong phần phiên âm không hề có chữ “tối” nên chữ “hồng” ở câu kết càng toả sáng hơn bao giờ hết. Ánh lửa chỉ có thể rực hồng khi nền trời đã ngả sang màu xanh thẫm. Người ta chỉ có thể nhìn ra ánh sáng bừng lên từ chiếc lò than bé nhỏ khi vạn vật xung quanh đã chìm trong bóng tối. Đây chính là ví dụ điển hình cho một đặc trưng của Đường thi – “ý tại ngôn ngoại” (ý ở ngoài lời) hay “hoạ vân hiển nguyệt” (vẽ mây hiện trăng).

* Gợi sức sống: Nếu như ở trên, độc giả cảm nhận sự hiu quạnh, man mác buồn, cái se lạnh buổi chiều tàn thì ở đây, người đọc lại thấy ấm lòng khi nhìn ra ánh lửa bập bùng từ căn nhà nhỏ dưới chân núi. Lại một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng định sức sống dẻo dai, khoẻ khoắn của con người. Hơi ấm từ chữ “hồng” khiến ta nghĩ đến những con người lao động chân chất châm nên ngọn lửa ấy. Ngọn lửa ấy giúp họ nấu cơm nóng hổi, tạo hơi ấm trong những ngày lạnh giá, chiếu sáng khi màn đêm buông xuống, giúp tận hưởng cuộc sống dù vẫn còn nhiều thiếu thốn về vật chất song có hạnh phúc mộc mạc, có niềm vui bình dị.

* Gợi tâm trạng: Sau một ngày chuyển lao mệt mỏi, cực nhọc, Hồ Chí Minh không nhìn về điểm cuối chân trời xa xăm không thấy tận cùng, cũng không nhìn về phía rừng sâu tối không thấy lối ra, cũng không thả hồn lên những đám mây lững lờ bay vô định. Người đặt trọn tầm nhìn của mình về phía “lò than đã rực hồng”. Ngọn lửa “hồng” tuỳ nhỏ nhưng cháy mãnh liệt ấy thu hút cả đôi mắt và trái tim của chủ thể trữ tình. Nhìn về phía đó, Bác thấy niềm tin về hạnh phúc luôn tồn tại ở đâu đó trong cuộc đời, phụ thuộc vào con người ta có chịu tìm kiếm, hay tạo ra hay không mà thôi. Cũng như ngọn lửa, nó không thể toả ánh hồng chiếu sáng cả vùng sơn cước bao la rộng lớn nếu không có bàn tay con người thắp nên. Cũng như đồng bào Việt Nam không thể thoát khỏi lầm than, khổ cực nếu không có những chiến sĩ dũng cảm dám đứng lên, ra đi tìm đường cứu nước. Từ đó, trái tim của Hồ Chí Minh được tiếp thêm sức mạnh, ý chí và nghị lực. Những mệt mỏi đã gửi vào cánh chim, chòm mây không còn, trong cặp mắt Người mới đây còn chứa nặng lo lắng, ưu tư nay chỉ thấy hi vọng, khát khao tìm ra chân trời mới.

* Tiểu kết: Chữ “hồng” tạo nên sự vận chuyển của hình tượng thơ: từ quạnh vắng đến tươi vui, từ bóng tối ra ánh sáng, từ mệt mỏi tới hân hoan, từ bế tắc về hi vọng. Trái với mường tượng của người đọc, Chiều tối không kết thúc bằng một khung cảnh u buồn với lời thở than của người tù, mà khép lại trong niềm hạnh phúc êm đềm, thanh bình. Qua đó, người đọc cảm nhận được tình yêu cuộc sống, tinh thần “thép” và tâm hồn đẹp của Hồ Chí Minh. Chính những nét đẹp đó, kết hợp với nghệ thuật tài tình đã tạo nên tứ thơ cô đọng, giàu ý nghĩa.
Diệu Vy