Ý nghĩa bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”

Việt Nam / Lớp 11 » Hàn Mặc Tử » Đây thôn Vĩ Dạ

13.00
...

Một bài thơ được nổi tiếng rất hay, được nhiều người yêu mến, được chọn làm tên một tập thơ có giá trị cao của nhiều nhà văn tên tuổi trong nước.

Hiện tại bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa vào chương trình văn học cấp ba. Vì vậy tôi tưởng xin góp ý để phân tích một vài điểm, mà thời đó có ít nhiều tranh luận.

Có lẽ đây là bài thơ sắc sảo, tế nhị nhất mà Hàn Mặc Tử, trong một ngày nào đó, trí óc rất minh mẫn, con tim lấy lại được nhịp độ tình yêu một thời thương nhớ cao nhất của Hàn, mà chỉ còn cách cái chết không bao xa.

Nguyên thuỷ bài thơ là: Ở đây thôn Vĩ Dạ

Chữ “Ở” trong đầu đề đã tạo được nhiều nhận xét tranh luận, sau đó không lâu, khi Hàn qua đời. Có nhiều người nặng óc giáo khoa chê chữ “Ở” trong đầu đề hơi quê, không nhẹ nhàng văn vẻ. Vì vậy tự động bỏ chữ “Ở” cho đầu đề ngắn gọn Đây thôn Vĩ Dạ nghe văn nghệ hơn.

Tôi nghĩ Hàn có lối viết mộc mạc đơn sơ như tánh tình bình dị của anh, không phải chải chuốt, đôi khi hơi quê kệch gồ ghề như trong câu:
Họ đã xa rồi không níu lại
Tình thương chưa đã mến chưa bưa
Chữ “đã” chữ “bưa” nghe sao thô kệch, còn táo bạo nữa, vậy mà lại hay vì lột được bản chất vừa thô vừa quê của Anh.

Ở đoạn cuối bài thơ, Hàn còn nhắc lại một lần nữa như để nhấn mạnh ý nghĩa không gian của bài thơ
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Bạn bè có tranh cãi đôi chút chung quanh: Ở đây là ở đâu? Ở Huế hay Qui Nhơn (xoá động Gành Ráng nơi Hàn đang viết bài thơ?)

Có thể là ở Qui Nhơn như Hàn nói. Nhưng sương khói mờ nhân ảnh phải đặt vào đâu để so sánh. Ai là nhân ảnh?

Hàn có lối diễn tả một vài chữ để bóng gió cắt nghĩa văn.

Sương khói ở đây tôi nghĩ Hàn liên tưởng khói trầm hương.
Nhân ảnh có thể là con người thế tục của anh trong tương quan với con người tu hành là chị Cúc.

Vì vậy “ở đây” có thể hiểu là “ở đó”, thi sĩ đã thu gần quãng cách không gian lại khi mơ màng nhìn say đắm bóng người trong ảnh.

Chính bức ảnh 6x9 này đã giúp Hàn sáng tác bài thơ tuyệt vời Đây thôn Vĩ Dạ. Hình bóng chị Cúc xuất hiện trong phiến ảnh nhỏ này đã làm sống lại mối tình đầu, thương nhớ lại trở về. Anh viết:
Sao Anh không về chơi thôn Vỹ?

Anh bỏ vận trắc, thành câu hỏi như bất chợt, làm người đọc nghĩ đến một sự đợi chờ quá lâu, có đôi phần thương nhớ pha chút trách yêu. Câu mở đầu đã diễn tả được lòng anh và có lẽ cả chị Cúc nữa.

Nhưng câu thứ hai thì tạo một ý niệm có thể làm cho chị Cúc, cô gái nhiều mặc cảm và kiêu sa, đã phải băn khoăn từ nhiều năm.
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Câu này có vẻ hững hờ như một nét chấm phá trong bức tranh Vĩ Dạ, tuy rất đẹp cho khung cảnh, nhưng lại lạc lõng bơ vơ không ăn khớp được với phong độ và tình cảm của người được tặng thơ.

Năm 1985, tôi có về Huế ghé thăm chị Cúc, cũng nhắc lại bài thơ “Thôn Vỹ” chị Cúc chợt hỏi: Cậu có tìm được một cây cau nào trong vườn tôi không? Sao anh Trí lại nói đến “hàng cau”?

Tôi hiểu ngay: Thì ra câu này làm chị Cúc hiểu lầm. Tôi nghĩ khi viết câu này, anh Trí không có một khái niệm rõ ràng về cây cau, giá trị của nó về lợi tức, thẩm mỹ hay tượng trưng tình cảm, mà chỉ là một nét chấm phá về cấu trúc thẩm mỹ cũng như bức tranh “con chim sẻ đậu trên cành trúc” mà Mạc Đĩnh Chi trông thấy bên Tàu khi đi xứ qua đó. Con chim sẻ quá đẹp nên không ai để ý đến vị thế hèn kém của nó trên cành trúc.

Thôn Vỹ Dạ, đã từ lâu, hình như chỉ dành riêng cho thế giới quan tham, quan thị, cô chiêu, cậu ấm, thì lại rất không may phải nằm sát nách với Nam Phổ, một thôn bình dân, đơn giản, sống bằng nghề trồng cau, chỉ cau và cau. Cau Nam Phổ rất nổi tiếng, hột lớn, mỏng vỏ dùng vào kỹ nghệ nhuộm lưới rất được miền Bắc ưa chuộng.

Hàng năm, đến mùa cau, trong gia đình, lớn, bé, trai, gái, đều biết trèo cau, “trảy” cau bán cho kịp mối. Các cô gái Nam Phổ, cũng nổi tiếng trèo cau rất giỏi. Nhiều cậu trai Huế xuống thường chòng ghẹo những “nường” má đỏ hây hây vì nắng rám, đẹp một cách mạnh khoẻ nhưng ngổ ngáo chẳng thua gì con trai.

Câu ví: “Con gái Nam Phổ ở lỗ trèo cau” làm cho người đẹp Nam Phổ rất giận.

Những ngày còn đi học, thường nghe chuyện các cô gái Nam Phổ hè nhau xúm lại “bóc vỏ” những anh trai nào lớ ngớ về Nam Phổ buông lời chòng ghẹo. Nhiều anh bị “bóc vỏ” ném vào các bụi dứa gai thì “đời tàn”, nếu không có cứu viện phải đợi đến tối mới mò ra.
Tiếng tăm Nam Phổ, nghe cũng ngán thật.

Có lẽ vì vậy, thôn Vỹ Dạ, phải cẩn thận xét nét, từng câu từng chữ kẻo lại bị người đánh giá thấp đi.

Cố nhiên là những cô gái khuê các vùng Vỹ Dạ rất sợ cái tiếng “trèo cau” đó. Và cũng không ai chịu trồng cau ở Vỹ Dạ.

Ai lại đem “hàng cau” về đặt vào “vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Chị Cúc giận là phải lắm.

Nghe chị nói có vẻ không bằng lòng, tôi vội vàng giải thích:

Vườn chị đây nè:
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Đã có cây trúc thanh cao “tiết trực tâm hư (ngay thẳng không tơ bợn gì)” nữa thì tuyệt quá rồi!

Chị Cúc bấy giờ mới cười vui vẻ.

Đoạn văn thứ hai mới là đoạn văn Hàn tâm sự:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
“Gió theo lối gió, mây đường mây”. Lương giáo không hoà đồng ân tình khó kết hợp. Thân thế anh như đám bắp bến đò Cồn, hướng về thôn Vỹ Dạ, lặng nhìn dòng nước vô tình trôi. Vậy thì con thuyền ai cắm sào đợi đó, có chở trăng về cho anh đỡ cô đơn. Vì anh chỉ còn có trăng.

Đoạn thơ thứ ba mới có một lời buồn trách:
Ai biết tình ai có đậm đà.
Chữ đậm đà ở đây phản ánh sự lợt lạt chiếc áo trắng lại còn trắng nữa thì thật không còn tìm đâu được chút màu sắc hứa hẹn nào.

Lại nữa, trên bức ảnh không ghi một câu hỏi thăm nào mà anh hằng mơ ước xa xôi. Vậy thì ai biết tình ai có đậm đà.

Câu thơ nầy nói lên nỗi mong đợi từ xa vẫn còn trong mơ hồ.
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra.
Hai câu kết ý Hàn nói phải chăng vì đời sống trầm hương của chị Cúc (sương khói) đã che mờ đi bóng dáng con người nhân thế của anh.
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà.
Hai câu kết này lấy lại ý thơ đoạn hai, vì lương giáo không hoà đồng mà đôi bên phải chia cách. Liệu còn nhớ nhau không?

Ở đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ tình tứ sâu sắc. Chỉ cần đọc qua cũng đã thấy ý nghĩa của nó: vừa nhớ nhung nhẹ nhàng, buồn trách xa xôi, không ai phiền luỵ ai, mà sao nghe như day dứt xót xa. Không ai nặng lời ai, mà nghe hờn tủi từ chiếc áo trắng không lời, từ đám bắp hiu quạnh cho đến con đò đợi trăng.

Bài thơ tuyệt vời từ ý đến lời này được chọn làm một tập thơ rất có giá trị của nhiều thi nhân tiếng tăm.

Bài thơ này, ông Quách Tấn giải thích một cách hờ hững suy diễn theo riêng tư không có cơ sở khiến chị Cúc nghe được bất bình lắm, nhưng chị lịch sự không muốn nói ra.

Trong một dịp về Huế ghé thăm chị Cúc nhắc lại những câu chuyện ông Tấn viết về chị trong Đôi nét về Hàn Mặc Tử, chị nói:

Ông Tấn kể chuyện anh Trí đi Sài Gòn lập chí để xem người ta còn khinh anh nữa không. Chị nói: “Người ta đây ông Tấn ám chỉ tôi. Vì tôi đã chê anh Trí không xứng môn đăng hộ đối.”

Chị Cúc nói: “Giữa anh Trí và tôi chưa hề có lời trao đổi chê khen, dù là gián tiếp, chưa hề có thái độ thân sơ, khinh trọng.” Vậy ông Tấn dựa vào đâu mà xét đoán tôi tầm thường như vậy. Dòng họ tôi sống theo nho phong Phật giáo có bao giờ mặc áo khỏi đầu. Anh Trí cũng biết vậy. Anh Trí viết trong bài Ở đây thôn Vĩ Dạ cũng đã thông cảm ý đó:
Gió theo lối gió mây đường mây.
Chị Cúc cũng thổ lộ: nếu nói về chuyện môn đăng thì thật là quá khinh bạc đối với gia đình Hàn Mặc Tử.

“Ông cụ tôi, chị nói (cụ Hoàng Phùng, thân sinh chị) đã từng là bạn đồng liêu với cụ Tham (cha tôi) khi hai người còn làm việc tại Toà sứ Hội An năm 1901. Tôi đọc gia phả cụ tôi có ghi năm đó bàn giao công việc đối với cụ Tham Nguyễn Văn Toản khi cụ chuyển ngành qua Thương Chánh. Nói như ông Tấn thì thật sai lầm làm cho tôi hổ thẹn.

Sau này về Huế gặp lại chị Như Lễ, gặp lại cậu tôi không biết ăn nói ra làm sao!

Chị Cúc cứ băn khoăn: Ông Tấn ghép tôi vào câu chuyện “đầu Cúc mình Cầm” gì gì đó trong mối tình anh Trí với chị Mộng Cầm. Tôi không hiểu ông Tấn muốn nói gì. Tôi an ủi chị: Ông thích nói cho vui vậy thôi, chuyện chi chị phải áy náy. Ngay câu chuyện ông nói Hàn vào Sài Gòn ghé Nha Trang thăm ông đã là đùa rồi, vì tháng 7/1934, ông Tấn còn đang ở Đà Lạt, vậy anh Trí thăm ai ở Nha Trang. Thôi bỏ đi, đừng suy nghĩ mà mệt trí.
Năm 1986, chị Cúc vào Sài Gòn ghé thăm chị Như Lễ, trông thấy bức ảnh Hàn treo trên vách không khuôn, chị lặng lẽ đi mua cái khung gỗ mới, tự tay tra ảnh vào khung treo lên. Cả nhà chị Như Lễ đều xúc động.

...
Nguồn: Hàn Mặc Tử trong riêng tư, Nguyễn Bá Tín, NXB Hội nhà văn, 1994